Đời người có 3 cảnh giới, cao nhất là lập đức, thứ nhì là lập ngôn và thứ 3 là lập công vậy nên giàu có thôi chưa đủ
Trong Phật Pháp cũng có luận thuật đại ý là, giàu có mà không có đạo đức thì sẽ gây nguy hại cho mọi người, còn giàu mà có đức hạnh thì đó là người mà mọi người đều kính trọng. Do đó giàu có thì không thể không tuyên dương, hoằng dương đạo đức.
Đây là vấn đề mà người giàu luôn suy nghĩ từng giờ từng phút. Có người muốn dùng tiền mua lấy sự hưởng thụ, có người lại muốn mở rộng sản nghiệp, có người muốn làm từ thiện, lại có người muốn nổi danh… Mỗi người có một chí hướng riêng, mà xem ra cái nào cũng có lý. Điều đó khiến cho nhiều người sau khi đã phát tài, giàu có rồi thì không biết lựa chọn con đường nào.
Lúc này, lần giở lại kinh điển, chúng ta mới giật mình trước trí tuệ của người xưa
Từ ngàn năm trước, cổ nhân đã nói: “Đời người có 3 cảnh giới, cao nhất là lập đức, thứ nhì là lập ngôn và thứ 3 là lập công”.
Người giàu có chỉ được tính là đã hoàn thành giai đoạn thứ nhất (lập công): có được tài sản lớn, không phải lo nghĩ về cái ăn, cái mặc. Rất nhiều người chỉ nỗ lực đến đây là dừng lại, có tiền rồi lại vẫn muốn có nhiều hơn, không ngừng kiếm tiền, trở thành nô lệ của đồng tiền. Do đó bậc Thánh giả Jesus nói: “Người có tiền đến Thiên quốc còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim”. Người giàu có rất khó tiến vào thế giới Thần Thánh.
Lại có người sau khi hoàn thành giai đoạn thứ nhất vẫn cứ tự không hài lòng, còn muốn làm nên việc lớn hơn nữa (lập ngôn), tức là trước tác thư tịch để lưu truyền cho đời sau. Người đến giai đoạn này thì đã không còn coi kiếm tiền là mục đích duy nhất trên đời nữa. Họ kỳ vọng có thể truyền cảm hứng cho nhiều người hơn nữa, giúp người khác có được linh cảm hoặc gợi mở. Họ mong muốn có nhiều người hơn nữa cũng trở nên giàu có giống như mình. Tuy trong đó ít nhiều có xen lẫn tâm tư cầu danh nhưng rốt cuộc vẫn là giúp ích cho người khác, cũng được tính là làm một việc tốt.
Người đạt đến cảnh giới này đã khá ít rồi, nếu muốn bước sang giai đoạn thứ ba (lập đức) thì vô cùng khó khăn. Lập đức là một việc lưu truyền thiên cổ, với tiền đề là người lập đức phải có đạo đức vượt xa người bình thường, đồng thời còn phải có chủ trương và kiến giải độc đáo của riêng mình. Họ ngôn truyền thân giáo (dùng lời nói truyền bá, dùng bản thân hành động giáo hóa) và có thể trở thành vạn thế sư biểu (bậc thầy vạn đời).
Người lập đức từ xưa đến nay cũng chỉ có được vài người. Ở giai đoạn này lại chia làm hai hình thức, một loại là Thánh nhân, Giác giả, tập hợp trí huệ của Trời Đất, lưu truyền cho hậu thế, sáng lập nên tông phái được vạn thế kính ngưỡng. Còn một loại nữa là có những cống hiến kiệt xuất cho sự phát triển của nhân loại, đồng thời có ảnh hưởng to lớn, sâu rộng. Người đến cảnh giới này thì đã không còn chút quan hệ gì đến tiền bạc nữa, người ta chỉ còn đánh giá về trí huệ và thành tựu mà họ cống hiến cho xã hội.
Nhưng con người không phải sống trong chân không, bậc Thánh nhân, Giác giả cũng vậy, khi sinh tồn ở thế gian, thì phải duy trì thân thể khỏe mạnh, bảo trì tinh lực để truyền bá đạo đức. Lúc này người giàu có đương nhiên là khởi tác dụng. Tương truyền, trưởng giả Cấp Cô Độc vì để chuẩn bị trường sở truyền Pháp tu hành cho Phật Thích Ca Mâu Ni nên đã mua khu vườn của Thái tử. Cái giá mà ông đưa ra là dùng những viên gạch vàng trải kín đất vườn để mua được nó. Đó chính là Tinh xá Kỳ Viên. Đây chính là trường hợp điển hình của người giàu có phụng Pháp kính Phật.
Trong sách “Sử ký hóa thực liệt truyện” có chép câu chuyện về một đệ tử của Khổng Tử là Tử Cống. Sau khi theo thầy học đạo, Tử Cống đến nước Vệ làm quan, rồi lại tận dụng mua rẻ bán đắt kinh doanh qua lại giữa hai nước Tào và Lỗ. Trong hơn 70 cao đồ của Khổng môn thì Tử Cống là giàu có nhất.
Một cao đồ nữa của Khổng Tử là Nguyên Hiến lại nghèo đến mức ngay cả cám cũng không đủ ăn no, ẩn cư ở trong ngõ hẻm xấu xí. Còn Tử Cống ngồi xe tứ mã, đem theo vải vóc hậu lễ đi thăm, tặng các chư hầu. Những nước ông đến, quốc quân cũng chỉ hành lễ chủ khách chứ không hành lễ quân thần. Danh tiếng Khổng Tử vang xa khắp thiên hạ một phần cũng chính là nhờ vào những đoàn người xe trước sau phò trợ Tử Cống. Dùng thực lực của mình tuyên dương chân lý, hồng dương đức Thánh nhân, quả thực là việc mà người giàu có nên làm.
Xưa những lớp người như Nho sinh, địa chủ ở làng xã hay thương nhân, Nho sỹ, sỹ đại phu ở thành thị… đều là giới tinh hoa văn hóa, là những người kế thừa văn hóa truyền thống qua hàng ngàn năm. Mà rất nhiều trong số đều là người giàu, có đủ của nổi của chìm.
Trong lịch sử cổ kim Đông Tây, những ví dụ như thế này rất nhiều. Điển hình nhất, ảnh hưởng sâu rộng nhất có lẽ thuộc về gia tộc Medici.
Gia tộc Medici là danh gia vọng tộc có thế lực lớn ở châu Âu suốt từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 17. Gia tộc Medici tuy không phải đầu tàu dẫn dắt chủ đạo cho sự phục hưng văn hóa nghệ thuật Italy nhưng không có họ thì cái gọi là thời kỳ Phục Hưng chắc cũng không có được diện mạo như chúng ta thấy ngày nay.
Thành tựu lớn nhất của gia tộc Medici là ở phương diện nghệ thuật và kiến trúc. Nó gần như là lực thúc đẩy to lớn đối với thời kỳ phục hưng văn hóa nghệ thuật. Giovanni là người tài trợ số một của gia tộc này cho nghệ thuật. Ông tài trợ cho Masaccio, đồng thời xây dựng giáo đường San Lorenzo. Họa sỹ tài năng nhất thời đó, Michelangelo, chính là bắt đầu sự nghiệp ở Lorenzo, làm việc cho mấy thế hệ gia tộc Medici. Ngoài việc ủy nhiệm công việc về mỹ thuật và kiến trúc, Medici cũng tiến hành sưu tầm số lượng lớn các tác phẩm nghệ thuật. Các tác phẩm nghệ thuật này vẫn còn đến tận ngày nay, được đem ra triển lãm tại trung tâm của Phòng trưng bày Mỹ thuật Uffizi, vùng Florence.
Về kiến trúc, gia tộc Medici đã để lại cho Florence rất nhiều điểm du lịch, trong đó bao gồm Phòng trưng bày Mỹ thuật Uffizi, Cung điện Pitti, Vườn Boboli và Biệt thự Belvedere. Ngoài những thành tựu về kiến trúc và nghệ thuật, gia tộc này còn có những cống hiến nổi bật về lĩnh vực khoa học, đã tài trợ những thiên tài như Leonardo da Vinci và Galileo Galilei.
Những thành tựu kinh ngạc này đã khiến gia tộc Medici trở thành “Người cha của nền Phục hưng văn hóa nghệ thuật”.
Gia tộc Medici đã tận dụng khối tiền bạc khổng lồ của mình để có những cống hiến không thể nào đo lường được về nghệ thuật cho nhân loại. Họ chính là những người đốt đuốc soi đường cho nhân loại trở về với nghệ thuật truyền thống. Nếu hỏi tiền bạc nên chi tiêu như thế nào cho hợp lý thì đây chính là câu trả lời tốt nhất.
Trong Phật Pháp cũng có luận thuật đại ý là, giàu có mà không có đạo đức thì sẽ gây nguy hại cho mọi người, còn giàu mà có đức hạnh thì đó là người mà mọi người đều kính trọng. Do đó giàu có thì không thể không tuyên dương, hoằng dương đạo đức.
Trong những thành tựu cổ kim Đông Tây, chúng ta thấy lập đức không chỉ đơn thuần là đề xướng đạo đức cao thượng mà bản thân còn phải dốc sức thực hành, trở thành tấm gương cho người đời sau. Tuyên dương hoằng dương đạo đức cũng không phải là làm từ thiện mà là tuyên dương tinh thần cao thượng của những người lập đức, khiến cho càng nhiều người có thể biết đến, học tập. Ngày nay có rất nhiều người giàu có đang làm từ thiện, nhưng đều là dùng tiền bạc giải quyết hoàn cảnh khó khăn vật chất của nhân loại, chứ chưa giúp mọi người trở về với giá trị đạo đức tinh thần truyền thống. Do đó, mọi chuyện cũng chỉ đang giới hạn ở giai đoạn lập công, lập ngôn mà thôi.
Người ta sau khi giàu có thì nên truy cầu điều gì? Ở các thời kỳ lịch sử khác nhau đều có cách làm khác nhau nhưng tinh thần chủ đạo thì vĩnh viễn không thay đổi, đó là lập công, lập ngôn và lập đức.
Các Thánh nhân, Giác giả thụ nhận Thiên ý, dẫn dắt nhân loại trở về con đường văn hóa truyền thống. Đồng thời, những người giàu có mà có đạo đức trợ giúp tiền của các Thánh nhân, Giác giả tuyên dương đạo đức, trợ giúp nhân loại trở về với nghệ thuật chính thống, đó chính là hợp với ý Thần, hỗ trợ tác thành Thiên ý, đó mới là sự nghiệp vĩ đại nghìn thu.
Nguồn: Tinhhoa