fbpx

Kinh tế trưởng ADB: Năm 2023 bên cạnh những ‘cơn gió ngược’ cũng bắt đầu xuất hiện những ‘cơn gió xuôi’

Lạc quan về triển vọng kinh tế năm 2023, ông Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB cho rằng, bên cạnh những cơn gió ngược đã thổi từ năm 2022 và tiếp tục sang 2023 đã có những cơn gió xuôi thực sự xuất hiện.

Sáng 11/1, ông Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng ADB tại Việt Nam cho rằng, năm 2023 bên cạnh “những cơn gió ngược” cũng có những “cơn gió xuôi” thực sự xuất hiện.

Phân tích về nhận định này, ông Cường chỉ ra rằng, những cơn gió ngược vẫn tiếp tục thổi từ năm 2022 sang 2023 nhưng nhờ đó cũng tạo ra những yếu tố tương đối tốt đặc biệt, ẩn số của năm nay là việc mở cửa của Trung Quốc, đây là một chủ thể vừa gây ra gió ngược và gió xuôi với nền kinh tế Việt Nam.

Kinh tế trưởng của ADB đánh giá, Trung Quốc sẽ nổi lên như một trong những yếu tố quan trọng của năm 2023 mà cả thế giới phải theo dõi. Dù vậy, phải đến hết quý II/2023, việc mở cửa của Trung Quốc mới tác động đến nền kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam.

Việc mở cửa của Trung Quốc có thuận lợi cho nông nghiệp, dịch vụ, xuất nhập khẩu của Việt Nam song thách thức là các nhà sản xuất Trung Quốc sẽ cạnh tranh với các doanh nghiệp Việt Nam.

Yếu tố thứ hai là thị trường ASEAN, ông Cường cho biết, trong khi các khu vực lớn trên  dự báo suy thoái thì khu vực châu Á vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng tương đối khả quan, đặc biệt là khu vực ASEAN.

“ASEAN vẫn là thị trường lớn đối với xuất khẩu của Việt Nam, đây là cơn gió xuôi rất mạnh và rất có tiềm năng”, ông Nguyễn Minh Cường đánh giá.

TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia cũng cho rằng, hai yếu tố có thể coi là động lực tăng trưởng trong năm 2023 là việc mở cửa của Trung Quốc và các Chương trình phục hồi và phát triển.

Bên cạnh đó, TS. Cấn Văn Lực cũng bổ sung về những “cơn gió xuôi” với kinh tế Việt Nam như: Chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trong năm 2021-2022 cũng là một thuận lợi cho năm 2023. Bên cạnh đó, kiều hối của Việt Nam trong năm 2022 rất tích cực tăng 5%, trong khi nhiều quốc gia trên thế giới giảm.

Nền tảng vĩ mô được duy trì tương đối ổn định, đặc biệt kinh nghiệm phòng chống dịch, kinh nghiệm trong ứng phó với rủi ro đã được nâng lên.

Kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế toàn hoàn cũng được đẩy mạnh trong những năm gần đây. Đặc biệt, sự cải cách về thể chế sẽ là một “cơn gió xuôi” cho sự phát triển trong năm 2023, TS. Cấn Văn Lực đánh giá.

Thách thức chính năm 2023: Xuất phát từ yếu tố trong nước

Ngoài những cơn gió xuôi, ông Cường cũng chỉ ra những thách thức lớn được coi như những “cơn gió ngược” đối với năm 2023.

Trong đó, một thách thức hiện diện rất rõ ràng là sự mở cửa của Trung Quốc. Ông Cường phân tích, những quốc gia như Ấn Độ, Philipines, khi nhu cầu trên thế giới giảm tốc họ vẫn có thể duy trì PMI trên 50 điểm nhờ sự liên kết giữa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.

Nhưng với Việt Nam, sự thiếu liên kết giữa thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu được bộc lộ rất rõ khi mà tổng cầu tiêu dùng nội địa tăng lên nhưng PMI vẫn lao dốc. Sự mất cân đối trong cơ cấu nền kinh tế khi khu vực xuất khẩu phụ thuộc lớn vào các doanh nghiệp FDI là lý do khiến tổng cầu xuất khẩu giảm, PMI lập tức đi xuống.

Về chính sách tiền tệ, Kinh tế trưởng của ADB đánh giá những chính sách tiền tệ năm 2022 hoàn toàn hiệu quả. Tuy nhiên, nếu không có các câu chuyện về thị trường vốn thì sự siết chặt tiền tệ hoàn toàn hợp lý và nền kinh tế có thể hấp thụ được.

Tuy nhiên, do có các câu chuyện về lòng tin bị suy giảm đối với thị trường trái phiếu doanh nghieoej (TPDN) sau đó lan sang thị trường tiền tệ nên những chính sách này chưa thực sự hiệu quả.

“Chính sách thì hoàn toàn đúng nhưng với thực tệ, làm sao để ngăn chặn cuộc khủng hoảng về niềm tin thì chỉ duy nhất chính sách tiền tệ sẽ không giải quyết được vấn đề”, ông Nguyễn Minh Cường nói.

Chính sách tài khoá cần chia sẻ nhiều hơn nữa với chính sách tiền tệ. Một mình chính sách tiền tệ để  đạt cả ba mục tiêu: Duy trì thanh khoản cho nền kinh tế, chống lạm phát và ổn định lòng tin sẽ thì sẽ khó có làm được, Kinh tế trưởng ADB đánh giá.

Một thách thức nữa là việc giải ngân vốn đầu tư công, tuy nhiên, ông Cường lại lật ngược lại vấn đề rằng tổng vốn giải ngân mục tiêu mà Việt Nam đưa ra có phù hợp hay không, liệu nền kinh tế có đủ sức hấp thụ được nguồn vốn này?

Kinh tế trưởng ADB cho rằng, trên thực tế nền kinh tế chỉ hấp thụ được khoảng hơn 400.000 tỷ đồng/năm, mà mục tiêu Chính phủ đưa ra là 700.000 tỷ đồng. Như vậy, nếu tổng vốn đầu tư côngquá cao so với sức hấp thụ trên thực tế sẽ gây sức ép lên việc huy động vốn từ trái phiếu Chính phủ và thanh khoản của hệ thống tài chính, ông Cường đánh giá.

Vì vậy, khi đặt ra kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công cần cân nhắc đến khả năng hấp thụ từ năng lực của nền kinh tế, bộ máy hành chính, doanh nghiệp, cơ chế, chính sách.

Với thị trường TPDN, Kinh tế trưởng ADB cho rằng, vẫn cần thực hiện những điều kiện của Nghị định 65 bởi nếu gia hạn một vài điều kiện cũng chỉ khơi thông được rất ít nguồn vốn nếu không lấy lại được niềm tin của thị trường.

Khi nhà đầu tư mất niềm tin thì việc gia hạn cũng chỉ nhận được sự quan tâm của doanh nghiệp phát hành chứ khó hấp dẫn nhà đầu tư. Việc giữ các điều kiện này cũng giúp giảm trái phiếu dưới chuẩn, tránh nợ xấu cho ngân hàng, ông Cường nhìn nhận và cho rằng, nếu chỉ có chính sách thì khó có thể duy trì niềm tin mà cần những giải pháp cụ thể hơn nữa để ổn định thị trường.   

Hà An

Vietnambiz

Các viết cùng chủ đề