Hợp đồng hoán đổi cổ phiếu (Equity Swap Contract) là gì? Đặc điểm
Hợp đồng hoán đổi cổ phiếu (tiếng Anh: Equity Swap Contract) là giao dịch hoán đổi giữa hai bên trong đó ít nhất một dòng tiền thanh toán được gắn với mức sinh lời của một cổ phiếu hoặc chỉ số cổ phiếu nào đó.
Định nghĩa
Hợp đồng hoán đổi cổ phiếu (Equity Swap Contract)
Khái niệm
Hợp đồng hoán đổi cổ phiếu trong tiếng Anh gọi là Equity Swap Contract.
Hợp đồng hoán đổi cổ phiếu là giao dịch hoán đổi giữa hai bên trong đó ít nhất một dòng tiền thanh toán được gắn với mức sinh lời của một cổ phiếu hoặc chỉ số cổ phiếu nào đó.
Dòng thanh toán còn lại thường được xác định dựa trên một loại lãi suất (cố định hay thả nổi), cũng có thể là mức sinh lời của một cổ phiếu hay chỉ số cổ phiếu.
Đặc điểm
Thứ nhất, dòng thanh toán của một bên tham gia hợp đồng được xác định từ mức sinh lời cổ phiếu (hay chỉ số cổ phiếu), trong khi mức sinh lời cổ phiếu hoàn toàn có khả năng mang giá trị âm (trường hợp giá cổ phiếu giảm). Vì vậy, bên thực hiện thanh toán theo mức sinh lời cổ phiếu có thể bị phát sinh nghĩa vụ thanh toán cùng lúc cả hai dòng tiền.
Xem xét trường hợp một nhà đầu tư tham gia hợp đồng hoán đổi cổ phiếu trong vai trò người trả khoản tiền gắn với mức sinh lời cổ phiếu, chẳng hạn là mức sinh lời chỉ số S&P 500 và nhận luồng tiền cố định; nghĩa là nhà giao dịch hoán đổi có nghĩa vụ nhận dòng tiền xác định theo mức sinh lời chỉ số S&P 500 và trả cho nhà đầu tư dòng tiền theo lãi suất cố định.
Nếu chỉ số S&P 500 tăng, mức lợi suất của chỉ số này mang giá trị dương và nhà đầu tư phải trả khoản tiền tương ứng với mức lợi suất đó (căn cứ trên giá trị gốc danh nghĩa) cho nhà giao dịch hợp đồng hoán đổi. Ngược lại, nếu chỉ số S&P 500 giảm, đồng nghĩa với mức lợi suất âm, nhà đầu tư phải trả một khoản tiền mang giá trị âm.
Thực chất là nhận được khoản tiền đó từ nhà giao dịch hoán đổi.
Trong tình huống này, nhà giao dịch hoán đổi có nghĩa vụ trả khoản tiền xác định theo mức sinh lời chỉ số cổ phiếu, đồng thời phải trả khoản tiền tính theo lãi suất cố định đã biết. Như vậy, nhà giao dịch tự doanh, hay là bên nhận dòng tiền gắn với lợi suất cổ phiếu, phải thực hiện cả hai dòng thanh toán.
Thứ hai, đối với hợp đồng hoán đổi cổ phiếu, khoản thanh toán tiếp theo gắn với lợi suất cổ phiếu không xác định được trước cho tới cuối kì thanh toán vì chỉ tại thời điểm đó ta mới xác định được mức sinh lời của cổ phiếu (chỉ số cổ phiếu) cơ sở.
Điều này khác với hợp đồng hoán đổi lãi suất hoặc tiền tệ vì lãi suất thả nổi được xác định ngay sau kì thanh toán, không kể lãi suất cố định là tham số đã biết rõ.
(Tài liệu tham khảo, Giáo trình Chứng khoán phái sinh & Thị trường chứng khoán phái sinh)
Các bạn có thể tham khảo thêm về các thuật ngữ khác tại đây