Câu lạc bộ tinh anh thống trị thế giới: ai mới là đấng quyền lực tối cao của nước Mỹ
Thế lực tư bản tài chính đã lên một kế hoạch cực kỳ lâu dài nhằm mục đích xây dựng một hệ thống tài chính để khống chế được cả thế giới, chỉ với một số ít người nhưng có thể làm bá chủ thế giới cả về chính trị lẫn kinh tế.
Cốt lõi của hệ thống này chính là ngân hàng thanh toán quốc tế Basel (Thuỵ Sĩ) – một ngân hàng thuộc quyền quản lý của tư nhân bởi bản thân những ngân hàng dầu não đang kiểm soát nó cũng chính là những công ty tư nhân. Vì thế nên mỗi ông chủ ngân hàng đầu não đó đều ra sức thông qua các phương thức như kiểm soát cho vay tài chính, thao túng giao dịch ngoại hối, tạo ảnh hưởng đến đời sống kinh tế quốc gia, cũng như trả thù lao cho các chính trị gia hợp tác trong các hoạt động thương mại để khống chế chính phủ của các nước.
Nhà sử học Carroll Quigley – năm 1966
Tháng 7 năm 1944, trong khi cả hai châu lục Á – Âu còn đang chìm trong khói lửa chiến tranh, nghĩa là chỉ hơn một tháng sau khi mở màn cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai thì tại Anh, Mỹ, một số nước Tây Âu đã cử đại diện của mình cùng với đại diện của 44 quốc gia khác trên thế giới đến Bretton Woods – một danh thắng nghỉ mát nổi tiếng của bang New Hampshire – để đàm phán về kế hoạch lập lại trật tự kinh tế thế giới mới sau chiến tranh. Còn các ông chủ ngân hàng quốc tế cũng bắt đầu thực thi kế hoạch mà họ đã vạch ra từ trước: kiểm soát việc phát hành tiền tệ trên toàn thế giới!
Mục đích cuối cùng của những tổ chức này chính là thành lập nên một chính phủ thế giới do một số rất ít các phần tử tinh anh thống trị cũng như thiết lập một hệ thống phát hành tiền tệ thế giới thống nhất cuối cùng, sau đó tiến hành thu “thuế thế giới” đối với công dân toàn cầu, đây chính là cái được gọi là “Trật tự thế giới mới“ (New World Order)!
Với một hệ thống như vậy, quyền quyết định nội bộ kinh tế và chính sách tiền tệ của các quốc gia có chủ quyền lẽ dĩ nhiên đều bị tước đoạt, và điều hiển nhiên đó là sự tự do về kinh tế lẫn chính trị cùng người dân của các nước ấy sẽ bị thao túng. Lúc đó, nợ nần chứ không phải là vũ khí mới chính là lớp vỏ xiềng xích đang trùm lên từng người dân hiện đại. Và để khiến cho mỗi “nô lệ“ hiện đại này tạo ra được hiệu quả lớn nhất thì việc tự do quản lý kinh doanh cần phải chuyển sang giai đoạn “ứng dụng” khoa học hiệu suất cao, xã hội không còn sử dụng tiền mặt mà là dùng tiền điện tử, áp dụng các kỹ thuật nhận dạng như RFIDI thống nhất chung trên toàn thế giới, còn chứng minh nhân dân sẽ được cấy vào cơ thể người. Tất cả những điều này chỉ để nhằm mục đích cuối cùng là biến con người hiện đại thành “nô lệ”. Nhờ kỹ thuật nhận biết được bằng tần số mà các ông chủ ngân hàng quốc tế cuối cùng cũng đã có thể kiểm soát và quản lý được từng người dù đang ở bất kỳ đâu trên trái đất này vào bất cứ lúc nào. Ngay sau khi tiền mặt không còn sử dụng trong xã hội nữa, chỉ cần lướt nhẹ ngón tay trên bàn phím máy vi tính là mỗi người đều có thể bị tước đoạt mất quyền mưu cầu của cải cho riêng mình bất cứ lúc nào. Và đây chính là một cảnh tượng vô cùng kinh hãi đối với tất cả những người yêu quý quyền tự do. Nhưng đối với các ông chủ ngân hàng quốc tế mà nói thì đây mới chính là cảnh giới cao nhất của “trật tự thế giới mới”.
Các bậc tinh anh đều cho rằng kế hoạch của họ không phải là “âm mưu”, mà là “dương mưu” (âm mưu mở), bởi nó khác với ý nghĩa truyền thống của âm mưu ở chỗ họ không có cơ cấu lãnh đạo rõ ràng mà chỉ là “sự gặp gỡ hoàn toàn xã giao của những người cùng chí hướng hợp nhau”. Tuy vậy, điều khiến cho những người bình thường cảm thấy bất an đó chính là hầu như những nhân sĩ lớn có chí hướng hợp nhau này đều muốn những con người bình thường hy
sinh lợi ích của mình để bổ sung” cho lý tưởng” của họ.
Người sáng lập ra Hội đồng Quan hệ Quốc tế tại Mỹ sau khi kết thúc cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất chính là đại tá House, một trong những nhà định hướng chiến lược chủ chốt của kế hoạch này ở nước Mỹ.
Ở Washington, không ai có thể thấy được người thống trị thực sự, họ điều khiển quyền lực từ phía sau tấm bình phong. Edward House, Thẩm phán Toà án tối cao của Mỹ. Đại tá House – tên gọi đầy đủ là Edward House, thẩm phán Toà án tối cao ở Mỹ – được Thống đốc bang Texas phong hàm đại tá nhằm biểu dương cho những đóng góp của ông trong cuộc bầu cử của bang này. House được sinh ra trong một gia đình giàu có chuyên nghề ngân hàng ở bang Texas. Trong thời kỳ nội chiến ở Mỹ, Thomas, cha ông, là người đại diện của dòng họ Rothschild tại châu Âu. Thời trẻ, House học tập tại Anh, và cũng giống như rất nhiều ông chủ ngân hàng của nước Mỹ thời kỳ đầu thế kỷ 20, House coi nước Anh như tổ quốc mình, đồng thời sớm thiết lập và duy trì mối quan hệ mật thiết với giới ngân hàng ở Anh.
Năm 1912, House đã xuất bản một cuốn tiểu thuyết mang tên “Philip Dru: Administrator”- một cuốn sách về sau đã được các nhà sử học đón nhận và rất ưa thích. Trong cuốn tiểu thuyết này, ông đã dựng nên một hình mẫu về một kẻ độc tài nhân từ đã nắm giữ được quyền lực của cả hai đảng ở Mỹ, thành lập được ngân hàng trung ương, thực thi được chính sách thuế thu nhập luỹ tiến liên bang, bãi bỏ được thuế quan bảo hộ, xây dựng nên hệ thống an sinh xã hội, tổ chức được một liên minh quốc tế (League of Nations).
Một thế giới tương lai được ông “dự đoán” trong cuốn sách này lại tương đồng một cách đáng kinh ngạc đối với tất cả những gì đã xảy ra ở nước Mỹ sau này, “khả năng dự báo” của ông quả thực đã vượt qua cả Keynes. Thực ra, những tác phẩm mà cả đại tá House và Keynes đã viết ra giống như những bản kế hoạch thực thi chính sách tương lai hơn là những ấn phẩm dự báo tương lai.
Ngay sau khi xuất bản, cuốn sách của đại tá House đã thu hút được sự chú ý của tầng lớp xã hội thượng lưu Mỹ, còn điều dự báo trong sách về tương lai của nước Mỹ lại hết sức trùng khớp với sự kỳ vọng của nhung ông chủ ngân hàng quốc tế. Điều này khiến cho đại tá House nhanh chóng trở thành “người cha đỡ đầu tinh thần” trong giới tinh anh Hoa Kỳ.
Năm 1912, khi bàn về việc chọn ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ, những người đứng đầu Đảng này đã cố tình bố trí để House “phỏng vấn” kiểm tra trực tiếp ứng cử viên Wilson. Sau khi đến gặp House ở New York, hai người đã có một cuộc nói chuyện khá lâu và đều tỏ ra rất ý hợp tâm đầu. Cuộc nói chuyện đó đã khiến Wilson phải thốt lên rằng: “Ngài House chính là hoá thân của tôi, là một bản sao thứ hai về chính con người tôi. Bởi cả hai chúng tôi đều có suy nghĩ giống nhau tới mức thật khó phân biệt được. Và nếu là House, tôi sẽ làm mọi việc đúng theo cách nghĩ của ông ấy.
Vậy là House đã đóng vai trò bắc cầu và thương thuyết giữa các chính trị gia với những ông chủ ngân hàng. Trước khi Wilson trúng cử, tại buổi tiệc do giới ngân hàng phố Wall tổ chức, House đã đảm bảo với các ông chủ tài chính lớn rằng: “Con lừa (Đảng Dân chủ) do Wilson đang cưỡi tuyệt đối sẽ không đá hậu trên đường…”(4) khiến cho những đại gia như Schiff, Warburg, Morgan, Rockefeller đều gửi gắm hy vọng vào House tới mức Schiff còn ví House như Moses, còn mình và những ông chủ ngân hàng khác thì như Warren.
Tháng 11 năm 1912, sau khi trúng cử tổng thống, Wilson đã đến Bermuda để nghỉ ngơi. Trong thời gian này, ông đã đọc rất kỹ tác phẩm “Philip Dru: Administrator” của House. Sau đó, trong những năm 1913-1914, ông đã cho thi hành các chính sách cũng như ban bố những pháp lệnh mà hầu hết đều đúng như những gì được viết ra trong cuốn tiểu thuyết của House.
Ngày 23 tháng 12 năm 1913, sau khi “Dự luật Cục Dự trữ Liên bang Mỹ“ được thông qua, Schiff, ông chủ ngân hàng của phố Wall đã viết thư cho House nói rằng: “Tôi muốn nói: Xin cảm ơn ngài về sự cống hiến thầm lặng mà hiệu quả từ những điều ngài đã làm trong quá trình vận động để dự luật tiền tệ được thông qua lần này”.
Ngay sau khi hoàn thành xong nhiệm vụ quan trọng là xây dựng được ngân hàng trung ương tư nhân này tại Mỹ, House đã bắt đầu tập trung vào các công việc quốc tế. Vốn có mối quan hệ rộng đối với những ông chủ quan trọng khắp từ Âu sang Mỹ mà House đã nhanh chóng trở thành một nhân vật có tiếng trên vũ đài thế giới. “ông ta (House) có mối quan hệ hết sức sâu sắc với các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế ở New York. Sức ảnh hưởng của ông ta lan toả đến rất nhiều các tổ chức tài chính cũng như những ông chủ ngân hàng lớn bao gồm: anh em nhà Paul Warburg và Felix Warburg, Otto Kun, Lui Mabow, Henry Mckensey, anh em nhà Jacopo và Motimer Schiff, hay Herbert Liman.
Ngoài ra, House còn có mối quan hệ khăng khít với các chính trị gia và cả những ông chủ ngân hàng lớn ở châu Âu. Năm 1917, tổng thống Wilson đã uỷ thác cho House tổ chức thành lập nhóm “điều tra” (The Inquiry) chuyên phụ trách các vấn đề có liên quan tới việc soạn thảo hiệp định hoà bình trong tương lai. Ngày 30 tháng 5 năm 1919, tại một khách sạn ở Paris – Pháp, nam tước Edward Rothschild đã triệu tập một hội nghị với khách mời tham dự bao gồm tất cả các thành viên của nhóm điều tra” và các thành viên hội nghị bàn tròn của Anh. Vấn đề trọng tâm của hội nghị đó là cân bằng lực lượng về các phần tử tinh anh giữa Anh và Mỹ. Ngày 5 tháng 6, những người này lại tổ chức nhóm họp một lần nữa và đi tới quyết định cuối cùng, đó là: vẫn phân chia hình thức tổ chức nhưng thống nhất hành động một cách có lợi. Ngày 17 tháng 6, House trong vai trò người triệu tập đã đứng lên thành lập Viện Hoàng gia Về Các Vấn đề Quốc tế ở Anh (Institute of International Affairs). Ngày 21 tháng 7 năm 1921, House đổi tên tổ chức này thành Hội đồng Quan hệ Quốc tế (Council Foreign Affairs) được những ông chủ ngân hàng phố Wall tài trợ. Thành viên của tổ chức này bao gồm nhóm “điều tra”, các đại biểu Mỹ tham gia hội nghị hoà bình Paris và 270 nhân vật tinh anh thuộc giới chính trị, tài chính đã tham gia xây dựng nên Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Vậy là một tổ chức với mục đích khống chế xã hội Mỹ và chính trị thế giới đã ra đời từ đó Khi còn là trợ lý Bộ trưởng hải quân dưới thời của Wilson, Roosevelt đã đọc rất kỹ tác phẩm “Philip Dru: Administrator” của House và tìm thấy được sự gợi ý sâu sắc từ đó “Kẻ độc tài nhân từ” được miêu tả trong cuốn sách chính là hình ảnh lột xác tử con người thực sau này của Roosevelt. Ngay sau khi Roosevelt trúng cử tổng thống, House lập tức được bổ nhiệm thành cố vấn cao cấp tối quan trọng trong Nhà tưởng. Còn con rể của Roosevelt đã viết trong hồi ký của mình rằng:
“Trong cả một quãng thời gian dài, tôi luôn cho rằng chính Roosevelt đã nghĩ ra rất nhiều chủ trương và biện pháp hữu ích cho nước Mỹ. Nhưng thực tế lại không phải như vậy. Hầu hết cách nghĩ cũng như đạn dược” chính trị của ông đều là những thứ mà Hội đồng quan bệ quốc tế và Tổ chức chủ trương thống nhất thế giới chung một đồng tiền đã làm sẵn ra từ trước cho ông.”
Ngày 17 tháng 2 năm 1950, con trai của Paul Warburg, nhà tài phiệt ngân hàng James Warburg – người đã từng đảm nhận chức cố vấn tài chính cho Roosevelt đồng thời cũng là thành viên của Hội đồng quan hệ quốc tế – đã phát biểu tại hội nghị uỷ ban đối ngoại của thượng nghị viện rằng: “Chúng ta cần phải xây dựng một chính phủ thế giới bất kể người ta có thích nó hay không. Chỉ có một vấn đề duy nhất là chính phủ thế giới này rốt cuộc sẽ được lập nên từ nhận thức chung (của hoà bình) hay là sự chinh phục (của uy lực) mà thôi.
Năm 1971, John Rarick, một nghị sĩ bang Louisians đã có nhận xét: “Hội đồng quan hệ quốc tế vẫn đang ra sức thành lập nên một chính phủ thế giới và đã nhận được sự ủng hộ về tài chính của một số Quỹ miễn thuế lớn nhất. Họ vung lên cây gậy quyền lực để giành lấy việc tạo ra một ảnh hưởng cực lớn đối với tài chính, thương mại, lao động, quân sự, giáo dục và truyền thông đại chúng. Mọi công dân trên đất Mỹ có ý thức bảo vệ và gìn giữ hiến pháp Mỹ cũng như tinh thần thương mại tự do của chính phủ tốt này đều cần phải hiểu được mưu đồ của nó. Có một điều đáng nói là giới truyền thông, những con người luôn được đất nước chúng ta bảo vệ quyền nắm rõ tình hình, luôn sẵn sàng bóc trần những vụ bê bối, nhưng lại hoàn toàn im lặng một cách đáng ngờ khi bàn tới những vấn đề có liên quan đến Hội đồng quan hệ quốc tế. Điều này có nghĩa Hội đồng quan hệ quốc tế thực ra là một tổ chức tinh anh, là nơi tụ hợp những nhân vật không chỉ có quyền lực và ảnh hưởng tối quan trọng về những quyết sách tối cao trong chính phủ nhằm duy trì được áp lực từ trên xuống, mà nó còn thông qua những khoản tài trợ cá nhân và tổ chức nhằm làm gia tăng áp lực từ dưới lên trên, với mục đích cuối cùng là để ủng hộ cho việc biến nhà nước Cộng hoà có hiến pháp, có chủ quyền nhanh chóng trở thành tay sai của một chính phủ thế giới độc tài.
Hội đồng quan hệ quốc tế có tầm ảnh hưởng tuyệt đối đến chính trị Mỹ. Kể từ cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai đến nay, ngoại trừ có ba người, còn hầu như những người trúng cử tổng thống đều là thành viên của tổ chức này. Dù mấy chục năm nay, hai đảng tham gia tranh cử vẫn luôn thay nhau nắm quyền nhưng chính sách của chính phủ thì luôn được duy trì hết sức nhất quán.
Sở dĩ có điều đó là vì các thành viên của hội đồng quan hệ quốc tế đã nắm giữ được những vị trí trọng yếu nhất trong chính phủ. Từ năm 1921 đến nay, đại đa số các bộ trưởng tài chính dầu là người cửa tổ chức này. Các cố vấn an ninh quốc gia từ thời Eisenhower đến nay chủ yếu đều do chính tổ chức này quyết định và bố trí. Tính ra đã có 14 bộ trưởng ngoại giao (kể từ năm 1949 đến nay), 11 bộ trưởng quốc phòng và 9 cục trưởng cục tình báo trung ương đều là người của tổ chức này.
Có thể thấy rằng, Hội đồng quan hệ quốc tế chính là “trường đảng trung ương” của các tinh anh Mỹ, bởi “Một khi các thành viên cốt cán của Hội đồng quan hệ quốc tế quyết định về một chính sách đặc biệt nào đó của chính phủ Mỹ, thì bộ máy nghiên cứu với quy mô khổng lồ của tổ chức này sẽ bắt đầu vận hành hết tốc lực. Họ đưa ra các quan điểm dựa trên cả tình cả lý để làm tăng thêm sức thuyết phục của chính sách mới. Trên bình diện chính trị và lý tưởng, nó làm xáo trộn và hạ thấp giá trị của bất kỳ ý kiến phản đối nào”.
Mỗi khi bộ máy quan trường Washington bị khuyết những vị trí trọng yếu, thì công việc đầu tiên của Nhà Trắng là gọi điện cho Hội đồng quan hệ quốc tế ở New York. Tờ Christian Science Monitor đã tiết lộ rằng, hơn một nửa số thành viên của tổ chức này đều được mời tham gia bộ máy chính phủ hoặc đảm trách vị trí cố vấn cho chính phủ.
Hội đồng quan hệ quốc tế có tới 3.600 thành viên và đều phải là công dân Mỹ thuộc giới ngân hàng, lãnh đạo của các công ty lớn, quan chức cao cấp trong chính phủ, các nhà báo cùng những học giả nổi tiếng, các cố vấn chiến lược hàng đầu và cả những tướng lĩnh cao cấp trong quân đội. Những người này đã hợp lại và trở thành “hạt nhân rắn chắc” của chính giới Mỹ.
Báo cáo của Hội đồng quan hệ quốc tế Mỹ năm 1987 cho biết, đã có 262 nhà báo cũng như các chuyên gia truyền thông nổi tiếng trong lĩnh vực “dẫn dắt dư luận” thuộc những giới truyền thông cốt yếu tại quốc gia này là thành viên của tổ chức. Những người này không chỉ “đẫn giải” các chính sách ngoại giao của chính phủ mà còn “soạn ra” những chính sách đó. Thành viên của hội đồng quan hệ quốc tế đã nắm giữ những mạng lưới truyền hình như CBS, ABC, NBC và PBS. Với giới báo chí, họ đã kiểm soát được các tờ báo lớn như: New York Times, Washington Post, Wall Street Daily Joumal, nhật báo Hoàn cầu Boston, Mothy của Bai, Los Angeles Times. Còn trong lĩnh vực tạp chí, họ đã giám sát được các tạp chí thuộc dòng chủ lưu như Times, Fortune, Life, Finance, The People, Entertainment Weeklys, Newsweek, Bussiness Weekly, US News & World Report, Readers Degest, Forbes và Atlantic Weekly. Đối với lĩnh vực xuất bản, họ đã khống chế các nhà xuất bản lớn nhất như: Mcmillan, Lander, Simon and Schuster, Hay Brother s, McGraw Hill.
Thượng nghị sĩ Mỹ William Jenner đã từng nói rằng: “Ngày nay, nước Mỹ có thể hoàn toàn hợp pháp hoá con đường đi đến độc tài của mình, còn người dân thì không nghe mà cũng chẳng thấy. Nhìn bên ngoài, chúng ta có một chính phủ hoạt động tuân thủ theo đúng hiến pháp. Nhưng bên trong chính phủ đó và cả hệ thống chính trị của chúng ta vẫn tồn tại một thứ quyền lực đại diện cho quan điểm của các bậc tinh anh – những người luôn cho rằng, hiến pháp của chúng ta đã lỗi thời và quyền quyết định có lẽ đang nằm trong tay họ”.
Như vậy, quyền quyết định các vụ việc dù đối nội hay đối ngoại của nước Mỹ thực sự không còn nằm trong tay của hai đảng Cộng hoà và Dân chủ nữa. Giờ đây nó đã nằm trong tay của những con người thuộc câu lạc bộ tinh anh siêu cấp.
Nguồn: Chiến tranh tiền tệ