“Mỗi người cần phải suy ngẫm một cách nghiêm túc xem mình đã gây ra bao khó khăn vất vả khi chạy theo những loại thực phẩm phải quá tốn kém mới sản xuất ra được.”
Một ngày nọ, có người từ đài truyền hình NHK đến và yêu cầu tôi nói vài điều về vị ngon của thực phẩm tự nhiên. Chúng tôi nói chuyện, và tôi yêu cầu anh ta so sánh giữa trứng gà nuôi trong chuồng dưới đất thấp với trứng gà thả chạy tự do trong vườn trên núi. Anh ta thấy rằng lòng đỏ trứng của gà bị nhốt trong trại nuôi thông thường thì mềm và loãng, có màu vàng nhợt còn lòng đỏ trứng gà sống tự do trên núi thì chắc, đàn hồi và có màu cam sáng.
Khi ông già, chủ một cửa hàng sushi trên thị trấn, nếm thử một trong các quả trứng tự nhiên này, ông ta nói đây mới là “trứng thật,” y như hồi xưa, và ông ta hân hoan như thể nó là báu vật.
Lại nữa, ở trên vườn quýt có nhiều loại rau khác nhau mọc xen giữa đám cỏ dại và cỏ ba lá. Củ cải, ngưu bàng, dưa chuột, bí, đậu phộng, cà rốt, những cây hoa cúc ăn được, khoai tây, hành, cải cay, cải bắp, vài giống đậu, và nhiều loại rau cỏ khác tất cả đều cùng nhau chung sống. Cuộc nói chuyện chuyển sang vấn đề liệu các loại rau kể trên, được trồng kiểu bán hoang dã như vậy, có vị ngon hơn những loại được trồng trong vườn nhà hoặc có sự trợ giúp của phân bón hoá học khi trồng ở trên ruộng hay không. Khi chúng tôi đem so sánh chúng với nhau, thì thấy mùi vị rất khác biệt, và chúng tôi xác định rằng các loại rau “hoang dại” có hương vị phong phú hơn.
Tôi bảo với người phóng viên đó rằng khi rau củ được trồng trên ruộng đã chuẩn bị sẵn, sử dụng phân bón hoá học (NPK), thì chúng được cung cấp ni-tơ, phốt-phát và kali. Nhưng khi rau củ được trồng trên nền đất tự nhiên với lớp đất mặt giàu chất hữu cơ, chúng sẽ có được một chế độ dinh dưỡng cân bằng hơn. Sự có mặt của nhiều loại cây cỏ hoang dại đồng nghĩa với một lượng phong phú các đa chất và vi chất dinh dưỡng thiết yếu có sẵn để cung cấp cho rau củ. Cây cối sinh trưởng trong lớp đất thịt cân bằng như vậy sẽ có hương vị tinh tế hơn.
Các loại thảo mộc ăn được, rau dại, cây cối mọc trên núi và trên đồng cỏ có giá trị dinh dưỡng rất cao và cũng có tác dụng làm thuốc. Thực phẩm và thuốc không phải là hai thứ khác nhau: chúng là mặt trước và mặt sau của một cơ thể. Những thứ rau củ nuôi bằng chất hoá học có thể dùng làm thực phẩm để ăn, nhưng chúng không thể dùng làm thuốc được.
Trong số các loại thức ăn hoang dã thì côn trùng thường không được ngó ngàng tới. Trong thời gian chiến tranh, lúc còn làm việc ở trung tâm nghiên cứu, tôi được phân công xác định xem những loại côn trùng nào ở khu vực Đông Nam Á là có thể ăn được. Khi điều tra về chuyện này, tôi kinh ngạc khi khám phá ra rằng hầu như bất kỳ con côn trùng nào cũng có thể ăn được.
Lấy ví dụ, chẳng ai có thể nghĩ là rận hay bọ chét có thể dùng được cho bất cứ chuyện gì, nhưng rận, được nghiền nhỏ và ăn cùng với ngũ cốc mùa đông, là một phương thuốc chữa động kinh, còn bọ chét thì là thuốc chữa tê cóng. Tất cả ấu trùng của côn trùng hoàn toàn có thể ăn được, nhưng phải ăn sống. Tra cứu các văn bản cổ, tôi tìm thấy những câu chuyện liên quan tới “các món đặc biệt” được làm từ giòi lấy từ nhà xí, còn mùi vị của con tằm quen thuộc được nhắc tới là thanh tao không gì sánh được. Ngay cả những con bướm đêm ăn cũng rất ngon nếu ta rũ hết phấn khỏi cánh của chúng trước.
Như vậy, dù từ quan điểm hương vị hay từ quan điểm sức khỏe, nhiều thứ mà con người coi là gớm ghiếc thực ra lại khá là ngon và tốt cho cơ thể con người.
Những loại rau nào mà về mặt sinh học gần nhất so với tổ tiên hoang dại của chúng thì sẽ có hương vị tuyệt nhất và có giá trị dinh dưỡng cao nhất. Ví dụ, trong họ huệ (gồm nira – tỏi tây, tỏi, tỏi Tàu, hành tăm, củ kiệu, và hành củ) thì nira và tỏi Tàu cho giá trị dinh dưỡng cao nhất, làm thảo dược tốt, và cũng có tác dụng như một loại thuốc bổ cho sức khỏe tổng quát. Tuy nhiên đối với phần lớn mọi người, các giống thuần hoá hơn chẳng hạn như hành tăm hay hành củ, lại được coi là có vị ngon nhất. Vì lý do nào đó, con người hiện đại thích hương vị các loại rau củ không còn ở trạng thái hoang dã ban đầu của chúng nữa.
Sở thích đối với các thực phẩm có nguồn gốc động vật cũng tương tự như vậy. Ăn vào người thịt chim hoang thì tốt cho cơ thể hơn là những con gia cầm thuần hoá, chẳng hạn như gà vịt, thế nhưng những con gia cầm này, nuôi ở trong một môi trường rời xa nơi sinh sống tự nhiên của chúng, lại được xem là có vị ngon và được bán với giá cao. Sữa dê có giá trị dinh dưỡng cao hơn sữa bò, nhưng chính sữa bò mới là loại sữa có nhu cầu sử dụng cao hơn.
Những loại thực phẩm đã xa rời trạng thái hoang dã của chúng và những loại được nuôi trồng bằng hoá chất hoặc trong môi trường được sắp đặt hoàn toàn dưới bàn tay con người sẽ làm mất cân bằng tiến trình hoá học bên trong cơ thể. Thể chất càng trở nên mất cân bằng, người ta lại càng trở nên ham muốn những loại thực phẩm phi tự nhiên. Tình trạng này rất nguy hại cho sức khỏe.
Nói rằng người ta ăn gì chỉ đơn thuần là chuyện sở thích cá nhân, như thế là đánh lạc hướng, bởi lẽ một chế độ ăn uống phi tự nhiên hay ngoại lai sẽ gây khó cho người nông dân và cả ngư dân nữa. Dường như người ta càng ham muốn nhiều thì người ta lại càng phải lao động nhiều hơn để thỏa mãn chúng. Một số loại cá, chẳng hạn như cá ngừ đại dương và cá cam nổi tiếng, phải đánh bắt xa bờ trong khi cá mòi, cá tráp, cá bơn và các loại cá nhỏ khác thì có thể đánh bắt với số lượng dồi dào ngay tại biển Nội Hải. Nói về mặt dinh dưỡng, những sinh vật sống ở sông suối nước ngọt, chẳng hạn như cá chép, ốc ao, tôm đồng, cua đầm lầy v.v. thì tốt hơn cho cơ thể so với những loài nước mặn. Tiếp đến là cá biển khu vực nước nông, và cuối cùng mới là cá biển sống ở khu vực nước sâu và xa bờ. Thực phẩm ở gần quanh là tốt nhất cho thể chất con người, còn những thứ mà con người phải vất vả mới có được lại chẳng có ích lợi gì mấy.
Điều đó nói lên rằng nếu người ta chấp nhận những gì gần tầm tay, thì mọi thứ sẽ tốt đẹp. Nếu nông dân sống trong làng này chỉ ăn những thực phẩm có thể trồng hoặc hái được tại chỗ thì sẽ không có chuyện gì sai lầm cả. Cuối cùng thì, giống như nhóm người trẻ tuổi sống trong những cái chòi trên khu vườn, người ta sẽ thấy đơn giản nhất là ăn gạo lứt và đại mạch, kê không đánh bóng, kiều mạch, cùng với các loại thảo mộc theo mùa và rau củ bán hoang dã. Đó là loại thức ăn tốt nhất, có hương vị và tốt cho cơ thể.
Nếu 22 giạ lúa gạo (600 ký) và 22 giạ ngũ cốc mùa đông thu hoạch được từ một nghìn mét vuông ruộng, như một trong những thửa ruộng ở đây, thì một thửa ruộng đó sẽ nuôi sống được từ năm đến mười người, mà mỗi người chỉ cần bỏ ra trung bình chưa đến một giờ làm việc mỗi ngày. Nhưng nếu ruộng đó biến thành đồng cỏ cho gia súc, hay nếu lượng ngũ cốc đó được đem cho gia súc ăn thì mỗi nghìn mét vuông đất chỉ nuôi sống được một người. Thịt trở thành một thứ thực phẩm xa xỉ khi việc sản xuất ra nó đòi hỏi phải chiếm diện tích đất mà lẽ ra có thể dùng để cung cấp thức ăn cho con người sử dụng trực tiếp được . Điều này đã được chứng minh một cách rõ ràng và rạch ròi.
Mỗi người cần phải suy ngẫm một cách nghiêm túc xem mình đã gây ra bao khó khăn vất vả khi chạy theo những loại thực phẩm phải quá tốn kém mới sản xuất ra được. Thịt và các thực phẩm nhập khẩu khác là xa xỉ phẩm vì chúng đòi hỏi nhiều năng lượng và tài nguyên hơn các loại rau củ ngũ cốc truyền thống sản xuất được tại chỗ. Kết quả là những ai tự đặt giới hạn cho mình chỉ sử dụng một chế độ ăn đơn giản kiểu địa phương sẽ không cần làm việc nhiều và sử dụng ít đất đai hơn so với những người thích ăn đồ xa xỉ.
Nếu người ta tiếp tục ăn thịt và thực phẩm nhập khẩu thì trong vòng mười năm chắc chắn nước Nhật sẽ rơi vào khủng hoảng thực phẩm. Trong vòng ba mươi năm sẽ có sự thiếu hụt thực phẩm trầm trọng. Cái ý tưởng ngớ ngẩn tràn tới từ nơi nào không biết, bảo rằng việc thay đổi từ ăn cơm sang ăn bánh mì là dấu hiệu của sự cải thiện trong cuộc sống hàng ngày của người Nhật. Thực sự không phải như vậy. Gạo lứt và rau củ trông có vẻ là một chế độ ăn đạm bạc, nhưng đấy là chế độ ăn rất tốt về mặt dinh dưỡng và cho phép con người ta sống một cách đơn giản và ngay thật.
Nếu thực sự chúng ta có khủng hoảng lương thực thì nó sẽ không phải do năng lực của tự nhiên không đủ, mà là do bởi ham muốn vô độ của con người.