fbpx

Dầu mỏ đã kiểm soát thế giới như thế nào? (Phần 1)

Trong suốt hơn 1 thế kỷ, từ cuối thế kỷ XVIII tới đầu thế kỷ XX, động cơ hơi nước và nền công nghiệp khai thác than đá là những trụ cột cho sự phát triển thần kỳ của chủ nghĩa tư bản và 2 cuộc Cách mạng công nghiệp. Tuy vậy, sự ra đời của động cơ đốt trong cuối thế kỷ XIX và nhất là động cơ diesel đã phế ngôi của than đá và đưa dầu mỏ (và các chế phẩm của nó như dầu diesel, xăng, dầu mazut…) lên vị thế bá chủ của các nguồn nhiên liệu.

Phần 1: SỰ TRỖI DẬY CỦA VÀNG ĐEN

Được phát hiện từ hàng ngàn năm trước Công Nguyên và bắt đầu khai thác trên quy mô công nghiệp từ giữa thế kỷ XIX, trong thời gian đầu dầu mỏ được sử dụng tương đối hạn chế trong lĩnh vực cơ khí, y tế và chiếu sáng. Phải tới đầu thế kỷ XX, sự thương mại hóa động cơ diesel và nhu cầu phát triển khí tài quân sự phục vụ chiến tranh đã giúp đẩy vọt quy mô khai thác dầu mỏ và biến nó trở thành mặt hàng quan trọng bậc nhất trên thế giới.

John Davison Rockefeller – ông hoàng dầu mỏ, trở thành tỷ phú USD đầu tiên trên thế giới vào năm 1916. Dầu mỏ đã không chỉ biến Rockerfeller trở thành người giàu có nhất lịch sử hiện đại (tổng tài sản 336 tỷ USD theo thời giá 2016), nó thậm chí còn ảnh hưởng tới hầu hết các sự kiện địa chính trị lớn nhất thế giới trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI.

Vậy bằng cách nào dầu mỏ, được ví như “vàng đen”, đã và đang trở nên quan trọng đến thế?

Tài nguyên quân sự chiến lược

Mỹ và Anh tiên phong trong việc hiện đại hóa hải quân bằng động cơ đốt trong, đưa dầu mở thành một tài nguyên quân sự chiến lược.
Mỹ và Anh tiên phong trong việc hiện đại hóa hải quân bằng động cơ đốt trong, đưa dầu mở thành một tài nguyên quân sự chiến lược.

Đầu thế kỷ XX, hầu hết các tàu chiến vẫn chỉ sử dụng động cơ hơi nước. Để so sánh, động cơ đốt trong có hiệu suất nhiệt gấp đôi do đó giúp thu hẹp kích thước buồng đốt, giảm kích cỡ tàu, tăng tốc độ và nâng tầm hoạt động lên gấp đôi. Nhưng chỉ có Hoa Kỳ và Anh thực sự quan tâm tới việc nâng cấp tàu chiến của mình. Tới năm 1912, thời điểm căng thẳng ở châu  Âu leo thang và chiến tranh đang ở ngưỡng cửa, Bộ trưởng Nội vụ Anh Churchill đã ra một quyết định chiến lược là chuyển sang sử dụng động cơ đốt trong cho toàn bộ các tàu chiến thuộc hạm đội Hải quân Hoàng gia Anh, bất chấp thực tế là Vương quốc Anh sở hữu lượng than đá và hệ thống trạm tiếp than khổng lồ, nhưng hoàn toàn không có dầu mỏ.

Thực tế chiến trường đã chứng minh cho tầm nhìn của Churchill: các tàu chiến Anh chiếm ưu thế gần như tuyệt đối trên mặt biển. Tuy vậy, dưới lòng đại dương lại là một câu chuyện khác. Người Đức không bỏ qua động cơ đốt trong, họ chỉ chyển sự tập trung cho 1 loại khí tài khác: tàu ngầm. Những tàu ngầm U-Boạt thời kỳ đầu của Đức đã gây cho người Anh không ít khốn đốn và thậm chí làm phát sinh nạn đói tại đây do các tàu chở hàng cung cấp lương thực và nhu yếu phẩm cho Anh thường xuyên trở thành miếng mồi ngon cho tàu ngầm Đức.

Tàu ngầm U-boat của Đức, nỗi ám ảnh dưới lòng đại dương của người Anh.
Tàu ngầm U-boat của Đức, nỗi ám ảnh dưới lòng đại dương của người Anh.

Chiến tranh thế giới thứ nhất là cuộc “chiến tranh chiến hào”, trong đó hai bên giao chiến phòng thủ trong một hệ thống hào sâu với súng máy, dây thép gai, bãi mìn… và chờ đợi bên kia tiến công trong những cuộc chiến đẫm máu, dai dẳng và vô cùng tiêu hao nhân lực. Cục diện trên chiến trường do đó có rất ít đột biến và kết quả thường phụ thuộc chủ yếu vào độ dẻo dai của các bên tham chiến. Tuy vậy, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, sự xuất hiện của xe tăng, dù chỉ trong giai đoạn sơ khai, đã đặt dấu chấm hết cho phong cách chiến hào. Chiến tranh cơ giới lên ngôi, xe tăng (và các loại xe thiết giáp) nhanh chóng phát triển với tốc độ chóng mặt và trở thành ông hoàng vũ khí trên mặt đất. Mỗi chiếc xe tăng tiêu thụ trung bình từ 300-500 lít xăng/dầu cho 100 km, do đó yêu cầu một nhu cầu dầu khổng lồ.

Xe tăng giúp thay đổi diện mạo chiến trường và kết thúc phong cách chiến tranh chiến hào, bắt đầu kỷ nguyên chiến tranh cơ giới với một nhu cầu khổng lồ cho dầu mỏ.
Xe tăng giúp thay đổi diện mạo chiến trường và kết thúc phong cách chiến tranh chiến hào, bắt đầu kỷ nguyên chiến tranh cơ giới với một nhu cầu khổng lồ cho dầu mỏ.

Tới giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai, dầu mỏ đã thực sự gây ảnh hưởng lên rất nhiều các chiến lược quân sự. Trong giai đoạn đầu, Hoa Kỳ vẫn đứng ngoài cuộc chiến và giữ thái độ vừa phải, chỉ sau cuộc đánh úp Trân Châu Cảng của quân đội Nhật Bản, Hoa Kỳ mới chính thức tham chiến. Nguyên nhân trực tiếp dẫn tới Cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng là do Hoa Kỳ cấm vận dầu mỏ và thương mại với Nhật Bản, đồng thời Đế quốc Nhật e ngại hải quân Mỹ sẽ cắt đứt con đường giao thương trên biển nối Nhật Bản với khu vực Đông Ấn vốn có rất nhiều các giếng dầu.

Trận chiến khởi đầu mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai có nguyên nhân trực tiếp do dầu mỏ.
Trận chiến khởi đầu mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai có nguyên nhân trực tiếp do dầu mỏ.

Trên mặt trận châu Âu, trong cuộc xâm lược Liên xô, các mỏ dầu ở Baku là một trong những mục tiêu đánh chiếm đầu tiên của Đức quốc xã thông qua chiến dịch Caucasus. Thậm chí khi chiến sự tại Stalingrad lên tới đỉnh điểm, Hitler đã từ chối gửi quân tiếp viện từ Caucasus (cách đó 700 km) và khẳng định “Nếu không chiếm được các mỏ dầu tại Baku chúng ta sẽ thua cuộc chiến này”. Sau cùng, như chúng ta đều biết, Đức quốc xã thua cả 2 trận Stalingrad và Caucasus, cũng như thất bại trong toàn bộ cuộc chiến, đúng như lời tuyên bố của Hitler.

Có thể nói, dầu mỏ đã góp phần không nhỏ trong việc thay đổi diện mạo chiến tranh và ngành công nghiệp vũ khí. Góp phần quan trọng trên chiến trường, dầu mỏ cũng khiến các quốc gia tham chiến trở nên lệ thuộc vào những nguồn cung cách xa hàng ngàn cây số. Trước khi dầu nổi lên thành mặt hàng chiến lược số một, khu vực Trung Đông khô cằn vốn khá yên ổn và gần như không đóng nhiều vai trò trong bản đồ địa chính trị quốc tế.

Hàng tỷ tỷ thùng dầu nằm dưới những sa mạc cát bao la đã chấm dứt sự êm đềm tại Trung Đông.
Hàng tỷ tỷ thùng dầu nằm dưới những sa mạc cát bao la đã chấm dứt sự êm đềm tại Trung Đông.

Nhưng kể từ khi công nghệ thăm dò cho biết ẩn dưới những sa mạc cát mênh mông là hàng tỷ tỷ thùng dầu chiếm 60% trữ lượng dầu mỏ toàn thế giới, vùng đất của những cây chà và, những đoàn lạc đà và những người Ả Rập vụt trở thành một khu vực chiến lược và có tiếng nói vô cùng quan trọng.

Dầu mỏ đã đặt nền tảng cho sự giàu có xa hoa ở Trung Đông ngày nay, nhưng cũng là nguyên nhân khởi phát cho vô vàn những căng thẳng quốc tế và những cuộc xung đột tại khu vực này trong tương lai.

OPEC và cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới chia thành 2 cực Xô – Mỹ, chiến tranh lạnh bắt đầu. Nếu như Liên xô có các mỏ dầu dồi dào khắp lãnh thổ thì các nguồn dự trữ dầu mỏ của Hoa Kỳ gần như cạn kiệt sau chiến tranh. Căng thằng ngày càng tăng cao trong việc giành quyền kiểm soát nguồn tài nguyên chiến lược này khiến CIA, trong các đời Tổng thống Mỹ từ Eisenhower tới Kennedy, đã chuẩn bị sẵn sàng một kế hoạch tối mật (chính sách khước từ dầu mỏ – oil denial policy) theo đó nếu Liên Xô giành được ảnh hưởng tại Saudi Arabia (Ả Rập Xê Út), Iran, Iraq, Lebanon hay Kuwait, Hoa Kỳ và Anh sẽ lập tức gửi máy bay ném bom hạng nặng nhằm tiêu diệt hoàn toàn các giếng dầu nơi đây.

Các thành viên của OPEC ngày nay, một nửa tới từ Trung Đông, 2/3 là các nước Ả Rập.
Các thành viên của OPEC ngày nay, một nửa tới từ Trung Đông, 2/3 là các nước Ả Rập.

Ý thức được tầm quan trọng của mình, 4 nước Ả Rập có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất là Saudi Arabia, Iran, Iraq và Kuwait, cùng Venezuela thành lập Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC vào năm 1960 tại Baghdad, nhằm đảm bảo quyền lợi cho các nước xuất khẩu dầu và nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Trong 10 năm đầu, OPEC liên tục mở rộng và chiếm hơn nửa tổng sản lượng khai thác dầu trên thế giới.

Ảnh hưởng đậm nét đầu tiên của OPEC tới tình hình thế giới là trong cuộc chiến Yom Kippur do liên minh các nước Ả Rập phát động nhắm vào Israel. Khi đó, nhằm ủng hộ liên quân Ả Rập, OPEC quyết định cấm vận xuất khẩu dầu mỏ sang các nước ủng hộ Israel, bao gồm Hoa Kỳ và một số nước đồng minh khác. Các nền kinh tế tại đây bị ảnh hưởng trực tiếp do nguồn cung dầu lớn nhất bị cắt, giao thông vận tải trì trệ, giá dầu tăng 4 lần từ 3$ lên 12$/gallon.

Những hàng dài xe hơi chờ đổ xăng trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973. Đa số xe trong hình đặc trưng cho trường phái xe hơi Mỹ thời kỳ đó: dài, rộng và cực tốn nhiên liệu.
Những hàng dài xe hơi chờ đổ xăng trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973. Đa số xe trong hình đặc trưng cho trường phái xe hơi Mỹ thời kỳ đó: dài, rộng và cực tốn nhiên liệu.

Chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là ngành công nghiệp xe hơi, đặc biệt là tại Hoa Kỳ. Kỷ nguyên của những chiếc xe “cơ bắp” phong cách Mỹ siêu trường siêu trọng siêu tốc độ và cũng siêu ngốn nhiên liệu kết thúc, xe hơi Nhật Bản với triết lý bền bỉ tiết kiệm nhiên liệu nổi lên, bắt đầu chiếm lĩnh thị trường Mỹ và quốc tế. Toyota từ một nhà sản xuất với thị trường chính yếu là nội địa, đã tăng hơn 3 lần tổng doanh thu trong 10 năm kể từ sau cuộc khủng hoảng 1973, và ngày nay đang là nhà sản xuất xe hơi số một thế giới.

Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973 cũng đồng thời làm thay đổi nhận thức của rất nhiều quốc gia về việc giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Cộng đồng quốc tế lần đầu tiên ý thức được tầm quan trọng của việc tiết kiệm năng lượng. Các nguồn năng lượng sạch như mặt trời và gió được tập trung nghiên cứu. Năng lượng hạt nhân được đầu tư phát triển trên quy khủng mô lớn, đặc biệt tại Pháp và Nhật Bản.

Năng lượng tái tạo bắt đầu được đầu tư nghiên cứu sau cuộc hoảng dầu mỏ 1973-1974.
Năng lượng tái tạo bắt đầu được đầu tư nghiên cứu sau cuộc hoảng dầu mỏ 1973-1974.

Đầu tư nghiên cứu các nguồn nhiên liệu tái tạo, nhiên liệu “sạch” chính thức trở thành một xu hướng phát triển đầy hứa hẹn trên quy mô toàn cầu.

Sự phụ thuộc của Hoa Kỳ vào dầu mỏ

Thấm thía bài học sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973, Hoa Kỳ nhận thức rõ ràng tầm quan trọng chiến lược của Trung Đông và cố gắng biến các nước Ả Rập thành đồng minh thân cận với mình. Tháng 6/1974, Tổng thống Nixon ký với Quốc vương Saudi Arabia Faisal thỏa thuận tiêu chuẩn hóa giá dầu theo USD (hệ thống petrodollar), theo đó tất cả dầu khai thác tại Saudi Arabia đều chỉ được bán ra thị trường theo giá USD. Đổi lại, Mỹ sẽ cung cấp cho Saudi Arabia sự bảo trợ về quân sự, cung cấp vũ khí, trang bị cho quân đội Saudi Arabia và bảo đảm an toàn cho nước này trước mối đe dọa từ Israel. Saudi Arabia là nước xuất khẩu dầu mỏ nhiều nhất OPEC và có tiếng nói hàng đầu trong thế giới Ả Rập, do đó không ngạc nhiên khi tới năm 1975, tất cả dầu do OPEC bán ra đều tính theo giá USD. Điều này đồng nghĩa với việc mọi quốc gia muốn mua dầu của OPEC thì trước hết phải mua USD. Giá trị của dầu do đó càng củng cố vị thế đồng tiền gái trị nhất trên thế giới của đồng USD, làm tăng tính thanh khoản cho thị trường tài chính Hoa Kỳ (do có nhiều USD được lưu thông rộng rãi) và giữ lãi suất cho vay ở mức thấp (do nhu cầu tăng cao trên toàn cầu).

Mặt khác, cố gắng gán dầu mỏ với USD nhằm gia tăng vị thế của đồng tiền càng làm nền kinh tế Hoa Kỳ thêm phụ thuộc nặng nề vào dầu mỏ. Sự phụ thuộc này được chứng minh ngay sau đó trong cuộc Cách mạng Hồi giáo tại Iran năm 1979. Được ví như cuộc cách mạng quan trọng thứ 3 trong lịch sử nhân loại sau Cách mạng Pháp và Cách mạng tháng Mười Nga, kết thúc với việc chế độ quân chủ tại Iran bị lật đổ và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản lượng khai thác dầu của Iran, nước xuất khẩu dầu mỏ lớn thứ 2 trong OPEC.

Cuộc Cách mạng hồi giáo Iran 1979 khiến Hoa Kỳ lâm vào cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ 2 trong vòng 6 năm. Trong áp phích là Lãnh tụ Hồi giáo Iran Ruhollah Khomeini, người sau đó đã khai sinh nước Cộng hòa Hồi giáo Iran và trở thành Lãnh tụ Tối cao.
Cuộc Cách mạng hồi giáo Iran 1979 khiến Hoa Kỳ lâm vào cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ 2 trong vòng 6 năm. Trong áp phích là Lãnh tụ Hồi giáo Iran Ruhollah Khomeini, người sau đó đã khai sinh nước Cộng hòa Hồi giáo Iran và trở thành Lãnh tụ Tối cao.

OPEC đối phó bằng cách tăng sản lượng nhưng những lo ngại toàn cầu khiến giá dầu tăng gần 3 lần, làm tiền đề cho một cuộc suy thoái kéo dài 30 tháng tại Hoa Kỳ. Trên bình diện quốc tế, cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần 2 này không để lại quá nhiều hậu quả nghiêm trọng, trái lại còn mang nhiều tác động tích cực. Nhiều quốc gia đã rút kinh nghiệm từ lần khủng hoảng trước và kịp phát triển những nguồn năng lượng thay thế, như Pháp và Nhật với những cơ sở hạt nhân quy mô lớn. Giá dầu tăng đột biến cũng mở ra cơ hội gia nhập thị trường cho các nước xuất khẩu dầu mỏ nhỏ hơn ngoài các nước OPEC, như Mexico, Trung Quốc, Brazil. Khi tình hình Trung Đông lắng dịu vài năm sau đó giúp việc sản xuất ổn định trở lại, dầu giá rẻ tràn ngập thị trường, từ mức 35 USD năm 1981 xuống dưới 10 USD một thùng năm 1986.

Máy bay tiêm kích Mỹ trong cuộc Chiến tranh vùng vịnh, bên dưới sa mạc là các giếng dầu đang bốc cháy do quân đội Iraq đốt để cản trở tầm quan sát và làm chậm bước tiến của quân đội Mỹ.
Máy bay tiêm kích Mỹ trong cuộc Chiến tranh vùng vịnh, bên dưới sa mạc là các giếng dầu đang bốc cháy do quân đội Iraq đốt để cản trở tầm quan sát và làm chậm bước tiến của quân đội Mỹ.

Nền kinh tế Mỹ phụ thuộc quá lớn vào sản lượng dầu mỏ tại Trung Đông, do đó Hoa Kỳ không chấp nhận bất kỳ bất ổn chính trị nào có nguy cơ làm giá dầu tăng vọt nữa. Năm 1990, khi Iraq tố cáo Kuwait khoan nghiêng các giếng dầu vào đất Iraq và xâm lược nước này, Hoa Kỳ ngay lập tức gửi quân can thiệp. Cuộc chiến tranh vùng vịnh kết thúc với thất bại của Saddam Hussein, và để lại gần 250.000 binh sĩ Mỹ đồn trú tại Trung Đông sau cuộc chiến. Để so sánh, vào thời điểm năm 1989 chỉ có chưa tới 700 binh sĩ Hoa Kỳ được triển khai tại đây.

Mọi nỗ lực can thiệp của bất kỳ lực lượng bên ngoài nào (ngoài Hoa Kỳ) nhằm giành quyền kiểm soát khu vực vịnh Ba Tư sẽ được coi là một cuộc tấn công vào lợi ích thiết yếu của Hoa Kỳ. Một cuộc tấn công như vậy sẽ bị đẩy lui bằng mọi phương tiện cần thiết, bao gồm sức mạnh quân sự.

Tổng thống Jimmy Carter – thông điệp liên bang 1980.

Bên cạnh đó, rất nhiều người tin rằng một trong những lý do chính Mỹ tấn công Iraq năm 2003 là do Saddam Hussein đang cố gắng bán dầu theo đồng Euro. Và sẽ thật thú vị nếu biết mới đây Trung Quốc tuyên bố sẽ mua dầu thô bằng đồng Nhân dân tệ. Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới, tiếp tục thách thức uy quyền của đồng USD và Hoa Kỳ.

Nhưng rồi, sự phụ thuộc của Hoa Kỳ vào Trung Đông thay đổi bởi một yếu tố ít ai ngờ tới: công nghệ.

Xem thêm Phần 2: Khi cáng cân xoay chuyển

 Nguồn: WikiWi/ Spiderum

Có thể bạn quan tâm: Tủ sách Đầu tư Happy.Live

tủ sách đầu tư tài chính happy.live

ĐỌC THỬ

Các viết cùng chủ đề