Edward Thorp đã phát hiện Siêu lừa Madoff từ năm 1991
Edward Thorp cho rằng hiện trên phố Wall vẫn còn rất nhiều chiến thuật lừa đảo kiểu mô hình Ponzi. Năm 1991, tức hơn 17 năm trước khi mô hình này sụp đổ, ông đã từng khuyến cáo về rằng lợi nhuận mà Bernard Madoff thu được quá cao để có thể trở thành sự thật. Nhưng không có nhiều người nghe theo ông và đã bị lừa.“Chiều thứ Năm, ngày 11 tháng 12 năm 2008, tôi nhận tin tức đúng như những gì mình dự đoán hơn 17 năm trước. Cuộc gọi từ New York của con trai tôi, Jeff, báo tin Bernie Madoff thú nhận việc lừa dối các nhà đầu tư 50 tỷ đô la trong kế hoạch Ponzi vĩ đại nhất trong lịch sử. ‘Đó là những gì bố dự đoán vào năm… 1991!’.“
– Edward Thorp –
Một sáng thứ Hai tiết trời xuân nhẹ dịu của năm 1991, tôi đi đến văn phòng New York của một công ty tư vấn quốc tế danh tiếng. Ủy ban đầu tư mời tôi làm cố vấn độc lập cho các khoản đầu tư vào quỹ phòng hộ của họ. Tôi dành vài ngày kiểm tra lịch sử hiệu quả hoạt động, cấu trúc kinh doanh và kinh nghiệm của các đơn vị quản lý, cũng như những chuyến thăm ngay tại trụ sở. Trong đợt phỏng vấn, một tay quản lý hoang tưởng đến độ không cho tôi biết loại máy tính cá nhân văn phòng anh ta sử dụng. Khi tôi vào nhà vệ sinh, anh chàng hộ tống tôi vì sợ nhỡ đâu tôi có thể rút tỉa thông tin giá trị trên đường.
Tôi thông qua danh mục đầu tư, trừ một ngoại lệ là quỹ đầu tư của Bernard Madoff. Khách hàng của tôi nhận lợi nhuận hàng tháng thường xuyên, dao động từ 1% đến hơn 2% trong hai năm. Hơn nữa, họ biết những nhà đầu tư Madoff khác chiến thắng đều mỗi tháng trong hơn một thập kỷ. Madoff tuyên bố sử dụng chiến lược giá chia điểm: Anh ta sẽ mua một cổ phiếu, bán một quyền chọn mua ở giá cao hơn, và sử dụng số tiền thu được đắp qua một quyền chọn bán ở giá thấp hơn.
Tôi giải thích theo lý thuyết tài chính, tác động dài hạn lên lợi nhuận danh mục đầu tư từ nhiều quyền chọn với nhiều mức giá mà các quyền chọn này có lợi nhuận ròng bằng không sẽ khiến kết quả cuối cũng về không. Vì vậy chúng tôi dự đoán, theo thời gian lợi nhuận danh mục đầu tư của khách hàng nên tương đương lợi nhuận cổ phiếu. Con số lợi nhuận Madoff báo cáo lớn đến mức tôi không thể đặt niềm tin. Hơn nữa, trong những tháng cổ phiếu giảm, chiến lược này lý ra phải chịu lỗ – nhưng Madoff không báo cáo bất kỳ thua lỗ nào. Sau khi kiểm tra bản sao kê tài khoản của khách hàng, tôi nhận thấy những tháng chiến lược thua lỗ chuyển sang thành thắng nhờ bán khống hợp đồng tương lai Chỉ số S&P. Cũng theo cách đó, những tháng nhẽ ra phải bội thu thì lại “thẳng thớm” (lợi nhuận bằng 0).
Nghi ngờ gian lận, tôi yêu cầu khách hàng của mình sắp xếp một chuyến thăm hoạt động của Madoff trên tầng 17 của tòa nhà trứ danh Lipstick trên đại lộ Third tại Manhattan. Bernie (Madoff) đang ở châu Âu tuần đó để kêu gọi thêm vốn. Người đứng đầu phòng giám sát và vận hành máy tính là anh trai của Bernie, Peter, bảo rằng nhận được lệnh không cho tôi vào cửa trước.
Tôi hỏi khách hàng của mình ai là người tính toán và kiểm kê sổ sách cho quỹ Madoff. Họ bảo do doanh nghiệp một thành viên của bạn và hàng xóm cũ Bernie từ thập niên 1960 đảm nhiệm. Trên cảnh báo gian lận cao độ hiện thời, tôi thắc mắc khi nào khách hàng nhận được xác nhận các giao dịch. Câu trả lời là chúng gửi theo đợt cách một hoặc hai tuần, khá lâu sau ngày diễn ra. Theo gợi ý của tôi, khách hàng thuê công ty của tôi phân tích chi tiết các giao dịch cá nhân của họ để chứng minh hoặc bác bỏ nghi ngờ giả mạo. Sau khi phân tích 160 giao dịch quyền chọn cá nhân, chúng tôi nhận thấy một nửa trong số đó không diễn ra trên sàn giao dịch theo báo cáo của Madoff. Đối với phần đã giao dịch còn lại, số lượng do Madoff báo cáo chỉ riêng hai tài khoản khách hàng của tôi vượt trên toàn bộ khối lượng báo cáo cho tất cả mọi người. Để kiểm tra phần thiểu số các giao dịch còn lại, tức những giao dịch không mâu thuẫn với giá cả và khối lượng từ báo cáo của các sàn giao dịch, tôi yêu cầu một nhân sự cấp cao của Bear Stearns tìm hiểu độ tín nhiệm của tất cả người mua và người bán quyền chọn. Chúng tôi không thể kết nối bất kỳ ai trong số họ với công ty của Madoff.
Tôi kết luận với khách hàng của mình các giao dịch là giả mạo và hoạt động đầu tư của Madoff là một gian lận. Khách hàng của tôi rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu tôi đúng và họ đóng tài khoản với Madoff, họ sẽ bảo toàn được tiền của họ, bảo vệ danh tiếng của họ và tránh khỏi tranh chấp pháp lý. Họ cũng biện luận nếu tôi sai, họ sẽ vô tình hy sinh khoản đầu tư tốt nhất của mình. Tôi khẳng định mình không thể sai: Tôi chứng minh từ các hồ sơ công khai cho thấy các giao dịch chưa bao giờ xảy ra. Họ đã được gửi cho những bằng chứng giao dịch giả tạo. Tôi nhấn mạnh chuyện lơ đễnh này có thể khiến công việc của họ gặp rủi ro. Rồi sự việc đến hồi giải quyết ổn thỏa. Họ đóng tài khoản của mình với Madoff và rút lại tiền. Trong 18 năm tiếp theo, họ dõi theo các nhà đầu tư khác của Madoff dường như trở nên giàu có. Tôi tự hỏi không biết họ có hay tiếc rẻ vì quyết định thuê tôi hay không.
Thông qua mạng lưới quan hệ của tôi, tôi nỗ lực tìm hiểu bao nhiêu khoản tiền khác đầu tư với Madoff, tôi nhiều lần nghe thấy tất cả các nhà đầu tư của anh ta đều nhận được khuyến cáo không tiết lộ mối quan hệ của họ, thậm chí giữa các nhà đầu tư với nhau, nếu không sẽ bị đánh rớt khỏi quỹ. Dù vậy, tôi hỏi dò xung quanh và biết được kế hoạch của Madoff phải lớn hơn rất nhiều. Theo dõi thành tích của một nhà đầu tư thuộc quỹ của Madoff cho thấy họ thu lợi nhuận hàng tháng tính từ năm 1979, nếu gộp lại thì thành khoảng 20% một năm, và tôi tìm hiểu được thành tích tương tự cũng đúng nếu tính từ thập niên 1960. Như vậy kế hoạch (lừa đảo kiểu Ponzi – chú thích của người dịch) này đã vận hành trong hơn 20 năm!
Sau khi chứng minh Madoff báo cáo các giao dịch giả mạo cho tài khoản khách hàng của tôi, và thực hiện tương tự với một số nhà đầu tư tôi bắt chuyện, tôi đã thu thập bằng chứng chắc chắn chứng minh gian lận. Tôi cảnh báo mọi người trong mạng lưới của mình, dự báo một kế hoạch Ponzi ngày một lấn lướt và rồi sẽ tới thời khắc chấm dứt thảm hoạ. Kế hoạch Ponzi đem lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Họ sử dụng số tiền các nhà đầu tư mới đưa vào quỹ (nhằm trả cho người cũ – chú thích của người dịch) nhưng cuối cùng cần nhiều tiền hơn nữa, đó là số tiền nhờ chiêu mộ các nhà đầu tư mới. Những nhà đầu tư mới này cũng phải được thanh toán, dẫn tới những kẻ cầm trịch Ponzi cần nhiều người đăng ký hơn nữa. Thời gian chưa bị phát giác càng kéo dài, hệ thống càng căng phồng, và sẽ càng tệ hại ngày sụp đổ.
Vào thời điểm đó, Madoff là một nhân vật có số trong nền công nghiệp chứng khoán, giữ chức chủ tịch NASDAQ, điều hành một trong những công ty giao dịch chứng khoán lớn thứ ba thị trường (phi tập trung) trong nước, được chính phủ tư vấn và SEC kiểm tra định kỳ. Liệu minh chứng có củng cố những cáo buộc vi phạm không? Câu chuyện của Harry Markopoulos đã thay cho lời đáp. Năm 1999, trước thách thức phải lý giải cho cấp trên tại sao Madoff, với một chiến lược được cho là tương tự lại có thể mang về lợi nhuận cao và ổn định hơn, cuối cùng Markopoulos kết luận đấy là chuyện bất khả thi dựa trên suy luận tài chính định lượng. Phương thức thực hiện cũng giống như giai đoạn tôi bắt đầu cuộc điều tra chứng minh gian lận. Mặc dù anh ta không chứng minh các giao dịch cá nhân bị giả mạo, thậm chí thiếu đi bằng chứng hiển nhiên đó, lập luận của anh ta có sức thuyết phục đến hoàn hảo. Trong 10 năm tiếp theo, Markopoulos cố gắng lôi kéo SEC vào cuộc, nhưng họ liên hồi quét anh sang một bên, xóa tên Madoff sau những lần điều tra chớp nhoáng và bác bỏ yêu cầu điều tra Madoff Investment vì nghi ngờ mô hình Ponzi do Markopoulos đệ trình từ văn phòng Boston.
Trong tài liệu đồ sộ 477 trang, “SEC thất bại trong cuộc điều tra kế hoạch Ponzi của Bernard Madoff – Phiên bản công khai”, ngày 31 tháng 8 năm 2009, Báo cáo số OIG-509, SEC điều tra và cung cấp tư liệu những thất bại lặp lại của chính họ, bắt đầu năm 1992 và kéo dài đến khi Madoff thú tội năm 2008, bám sát những manh mối hiển nhiên, những vụ kiện mũi nhọn và những vi phạm rõ ràng luật chứng khoán. Tuy nhiên, SEC liên tục hủy các tài liệu ít nhất cho đến tháng 7 năm 2010, không chỉ liên quan đến Madoff, mà còn góp mặt các tổ chức tài chính lớn như Goldman Sachs và Bank of America, cũng như SAC Capital Advisors trong suốt quá trình điều tra sau này. Bị cáo buộc tội giao dịch nội gián, SAC Capital đồng ý chịu mức phạt 1,8 tỉ đô la cuối năm 2013 và đóng cửa với các nhà đầu tư bên ngoài.
Mười năm sau khi tôi phát hiện ra vụ gian lận Madoff, tại một hội thảo đầu tư quỹ phòng hộ do Barron’s tài trợ, một tuần san của tờ The Wall Street Journal trình bày dữ liệu tài chính và các câu chuyện chuyên sâu, tiêu đề bài viết nói về nhà quản lý đầu tư không có mặt ở đây, nhà quản lý với thành tích chói lọi nhất giới đầu tư – Bernie Madoff. Thậm chí còn dành ưu ái cho các nhà đầu tư, anh ta không tính phí thường niên của quỹ phòng hộ, tức 1% mỗi năm tính trên tài sản cộng với 20% của lợi nhuận ròng mới. Giả sử anh ta kiếm tiền từ phí thu ít ỏi trên khối lượng giao dịch khổng lồ chảy qua công ty môi giới của mình từ các lệnh mà anh ta đại diện và thực hiện cho khách hàng đầu tư.
Ngay cả với những ngờ vực lan rộng trong câu chuyện của Barron, và đầy rẫy nghi ngờ gian lận nay được nhiều người lên tiếng, các nhà lập pháp vẫn cứ say ngủ. Hàng nghìn nhà đầu tư của Madoff và những người thụ hưởng được trả tiền để bảo vệ bản thân cũng chưa tỉnh mộng. Vụ gian lận kết thúc như thế nào? Khi sự việc không đủ tiền nuôi lợi nhuận cho các nhà đầu tư bị phanh khui, toàn bộ mô hình Ponzi kết thúc, Bernie Madoff (phát âm như MADE-off, chạy trốn kết hợp “với tiền của bạn”) ra đầu thú vào ngày 11 tháng 12 năm 2008. Có lẽ muốn bảo vệ những cộng sự của mình, anh ta vẽ ra câu chuyện một tay âm mưu gây dựng kế hoạch. Người đàn ông gần như mù tịt hệ thống máy tính này tuyên bố mình là người duy nhất trực tiếp chỉ đạo toàn bộ hoạt động máy tính tầng 17, cùng với khoảng 20 nhân viên dưới trướng – được cho là không ý thức được hành động sai phạm – phân hàng tỷ đô la giao dịch giả mạo cho hàng nghìn tài khoản.
Vào ngày 11 tháng 8 năm 2009, chính xác chín tháng sau, Frank DiPascali, Jr., người giám sát hàng ngày hoạt động của Madoff, bị SEC áp giải tại Toà Án Liên Bang Khu, Quận Nam New York. Vào thời điểm này, SEC đã biết Bernard Madoff Investment Securities (BMIS) “quản lý các tài khoản của nhà đầu tư từ thập niên 1960…” Tuy nhiên, khiếu nại của SEC báo cáo chiến lược giá chia điểm bắt đầu từ năm 1992, trong khi sau quá trình xem xét hồ sơ khách hàng tôi nhận thấy chiến lược ắt phải diễn ra sớm hơn vài năm. Thừa nhận tội trạng, Madoff nói trước tòa mình bắt đầu đục khoét đầu thập niên 1990. Nhưng đế chế phạm tội của anh ta “lỡ” phát tướng và tồn tại ít nhất phải 20 năm trước. Madoff tuyên bố anh trai Peter và hai cậu con Mark và Andrew, tất cả những ủy nhiệm viên trong công ty, và người vợ Ruth Madoff là vô tội và không ý thức tội đồng lõa trong vụ lừa đảo ròng rã 40 năm. Bênh cạnh một tay điều đình kế hoạch lừa đảo như lời tự thú, Madoff tá túc tại nhiều khu dinh thự khác nhau của mình, bay sang các nước gây dựng nguồn vốn, ghi dấu lên những quỹ khổng lồ trên thế giới giữa các ngân hàng và khoản phí lớn trả cho “người gây quỹ” vì mang về cho anh ta các khoản đầu tư. Trong một không gian khác, bằng cách nào đó mô hình phức tạp vận hành như kim đồng hồ quay suốt những lần vắng mặt của anh ta.
Trong lời cuối trước tòa tuyên án, trái với thực tế, Bernie Madoff cho biết anh ta nghĩ kế hoạch lừa đảo của mình bắt đầu từ năm 1991, ngược lại kết quả tôi phát giác là kế hoạch này đã vận hành hàng thập kỷ. Bản cáo buộc của SEC lên Frank DiPascali – có lẽ sử dụng thông tin từ DiPascali – cho rằng gian lận được máy tính hoá và chiến lược giá chia điểm bắt đầu vào năm 1992. Điều này cũng mâu thuẫn trước các báo cáo khách hàng do tôi kiểm xét từ năm 1989 đến 1991. Về sau, Peter Madoff, DiPascali, và một số nhân viên khác nhận tội, họ bị kết án phạt tiền và tù giam.
Madoff âm mưu lừa đảo số tiền lên đến 50 tỷ đô la, dù dựa trên số lượng nhà đầu tư cổ phiếu giả mạo bám vào ảo tưởng tài khoản chung cuộc của họ rồi sẽ đạt ước tính 65 tỷ đô la. Để phân phối công bằng số tiền còn lại, người thụ ủy trong vụ phá sản phải xác định số tiền mỗi nạn nhân đưa vào, đã được thanh toán bao nhiêu và cho người nào. Mỗi cá nhân trong một vài “chốt trạm” thu gom hàng tỷ đô từ các nhà đầu tư để chuyển cho đối tượng tuyên bố đã kiểm tra kỹ lưỡng tính hợp pháp trong chiến lược của Madoff, cuỗm đi hàng trăm triệu đô tiền phí. Nguồn tiền lũ lượt tràn về làm bệ đỡ giúp họ nâng cao quyền lực và địa vị xã hội trong giới siêu giàu. Có tường trình một người đã cuỗm hơn 5 tỉ đô la so với số tiền anh này góp vào! Thực tế Madoff luôn để những tay khác gom lượng phí quản lý khổng lồ, thay vào đó thỏa hiệp phí hoa hồng giao dịch ít nhẹm, bản thân sự kiện này đã đủ rúng động các nhà đầu tư, cố vấn viên và nhà lập pháp.
Chính phủ công bố danh sách hơn 13.000 người nắm giữ tài khoản Madoff trong quá khứ và hiện tại, từ hàng trăm người về hưu khá giả ở Florida cho đến những người nổi tiếng, tỷ phú và các tổ chức phi lợi nhuận như tổ chức từ thiện và trường đại học. Tay lừa đảo (và những người khác) nói gì về lý thuyết thị trường “hiệu quả”, trong đó cho rằng các nhà đầu tư lý trí và truy cứu tất cả các thông tin giá trị công khai trước khi đưa ra lựa chọn, mà khiến quân đoàn các nhà đầu tư trên dễ bị bắt nạt, thường trong nhiều thập kỷ đến vậy?
Trí tuệ đám đông và chứng loạn trí của bầy chuột lemmut
Trong hàng nghìn nhà đầu tư của Madoff có tên trong danh sách, có một cố vấn tài chính nổi tiếng. Anh ta cũng hiện diện tại các hội nghị năm 1991, cũng chính nơi tôi phơi bày vụ lừa đảo Madoff. Lúc đó tôi quen biết Ned được nhiều năm rồi, vì vậy tôi diễn giải mọi ngóc ngách để chắc chắn anh ấy thông tường hiểu tận. Dù chúng tôi không liên lạc giữa thập niên 1990, tôi giật mình khi nhìn thấy anh và gia đình của mình nằm trong danh sách các nhà đầu tư của Madoff năm 2008. Hơn nữa, một người quen của hai chúng tôi bảo với tôi rằng Ned đã vớ bẫm hàng trăm triệu đô la khi hợp tác với Madoff, đã vẫn hướng dẫn các nhà đầu tư tiếp tục rót tiền vào quỹ của Madoff trong chính cái tuần mà Madoff thú tội.
Từng thân thiết và biết Ned khá rõ, tôi ngẫm lại nguyên nhân sâu xa nào đã neo giữ niềm tin của anh vào Madoff. Theo tôi, Ned không phải là kẻ lừa đảo. Thay vào đó, tôi nghĩ anh ấy trải qua tình trạng xung đột nhận thức. Đó là hiện tượng bạn muốn tin vào một điều gì đó đến mức bạn đơn giản chối bỏ bất kỳ thông tin nào trái ngược. Người nghiện nicotin thường phủ nhận hút thuốc lá gây nguy hiểm cho sức khoẻ của họ. Thành viên trong cùng đảng phái chính trị phản ứng ôn hòa với những dối trá, lừa lọc và hành vi đồi bại của “người chung chí hướng” nhưng lại nổi máu trước điều trên khi chính trị gia của phe đối lập can dự.
Tôi cũng sớm lĩnh hội được trên bất kì lĩnh vực nào, dù mình đưa ra những lập luận chi tiết hay hợp lý đến đâu chăng nữa, tư tưởng của Ned vẫn không xê dịch nhiều. Những vấn đề khác đều mang chung trải nghiệm. Để đưa ra quyết định, Ned đơn thuần thăm dò ý kiến tất cả những người anh quen biết rồi đi theo quan điểm số đông. Một khi tôi đã tìm ra điều này, tôi ngừng lãng phí thời gian của tôi chia sẻ suy nghĩ của tôi với anh ta.
Phương pháp bỏ phiếu của Ned hiệu quả rõ rệt trong những tình huống nhất định, như việc đoán số đậu trong thùng, hoặc cân nặng một quả bí. Quân bình tất cả ý kiến của đám đông thường chuẩn xác hơn so với hầu hết các dự đoán riêng lẻ. Hiện tượng này có tên trí tuệ đám đông. Nhưng hầu hết sự đơn giản hoá đều mang mặt trái, như trong trường hợp Madoff. Ở đây chỉ có hai câu trả lời: Madoff là kẻ gian lận hoặc là Madoff là nhà đầu tư thiên tài. Đám đông bỏ phiếu cho nhà đầu tư thiên tài và họ hiểu sai bét về điều đó. Tôi gọi mặt trái của trí tuệ đám đông là chứng loạn trí của bầy chuột lemmut*.
*Cứ khoảng từ ba đến bốn năm một lần, hàng đàn chuột lemmut lại di chuyển qua những vùng nhất định của Nauy, Thuỵ điển và Laplandi. Mặc dù hành trình có thể khác nhau nhưng chúng luôn tiến về phía biển. Chuột lemmut di chuyển chậm nhưng rất quyết liệt, vượt qua tất cả các chướng ngại vật. Và khi tới biển, chúng nhảy xuống và tự kết liễu đời mình. Không một con nào trở về sau những chuyến đi như vậy.
Nguồn: Trích sách Người đàn ông đánh bại mọi thị trường
Có thể bạn quan tâm
Người Đàn Ông Đánh Bại Mọi Thị Trường – Edward Thorp