Nóng chuyện giải cứu trái phiếu, M&A ngân hàng
Doanh nghiệp suy kiệt nguồn vốn
Từ quả bom trái phiếu doanh nghiệp, hiệu ứng tuyết lở đã lan từ thị trường bất động sản sang nhiều lĩnh vực khác. Cả ba trụ cột vốn bị tắc nghẽn, khiến doanh nghiệp rơi vào tình trạng “khô máu”. Việc cứu dòng tiền của nền kinh tế trước khi tình hình trở nên quá muộn đã trở nên cấp bách.
Sản xuất, xuất khẩu cũng lao đao thiếu vốn
Tìm mọi cách bán tài sản, hoán đổi trái phiếu cho nhà đầu tư, cắt giảm hàng trăm lao động, vay tín dụng đen với lãi suất cắt cổ để cầm cự… đang là thảm cảnh của nhiều doanh nghiệp bất động sản hiện nay. Thế nhưng, không chỉ doanh nghiệp bất động sản, mà nhiều doanh nghiệp sản xuất cũng đang trong cảnh bế tắc nguồn vốn, bao gồm cả các lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho hay, mặc dù hạn mức tín dụng của nhiều doanh nghiệp mới giải ngân được 60 – 80%, nhưng thực tế, các ngân hàng đã tạm ngừng giải ngân tiếp, khiến doanh nghiệp lâm vào cảnh không có vốn thu mua nguyên liệu dù đang bước vào mùa cao điểm xuất khẩu cuối năm, buộc họ phải hoạt động cầm chừng.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, ông Bùi Dương Thuật, Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu trái cây Mekong (Châu Thành, Bến Tre) cho biết, mặc dù Công ty vẫn còn hạn mức tín dụng tại ngân hàng, song ngân hàng thông báo chỉ khi trả nợ cũ mới được giải ngân khoản vay mới, trả nợ bao nhiêu thì sẽ được vay bấy nhiêu.
“Nếu bây giờ tôi trả nợ, nhưng 3-4 ngày sau mới có nhu cầu vay vốn, thì nhân viên ngân hàng cũng không dám hứa là có cho vay lại được không, vì không biết khi đó còn room hay không. Bởi vậy mới có chuyện ngay cả khi tiền hàng về, chúng tôi vẫn chưa dám thanh toán cho ngân hàng ngay, chấp nhận phải trả thêm tiền lãi, vì sợ khi có nhu cầu lại không vay được”, ông Thuật nói.
Bi đát hơn, ông Nguyễn Trí Ngọc, Phó chủ tịch Hiệp hội Phân bón chia sẻ, có doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp thậm chí phải đi vay nóng để cầm cự. “Vay nóng để trang trải tiền lương, cầm cự sản xuất thì quả thật là không thể chấp nhận được. Mục tiêu của chúng ta là phải phục hồi kinh tế, mà với tình hình vốn như hiện nay, doanh nghiệp không thể phục hồi”, ông Ngọc lo lắng.
Khảo sát của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ) cho thấy, từ nửa cuối tháng 10/2022 đến nay, các doanh nghiệp tư nhân trong tình thế cấp bách vì thiếu vốn, không còn dòng tiền để duy trì sản xuất – kinh doanh và chuẩn bị nguyên liệu cho các kỳ sản xuất năm sau. Khó khăn này không chỉ diễn ra với các ngành liên quan trực tiếp tới bất động sản (như vật liệu xây dựng), mà còn với cả nhiều ngành khác như công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp…
Cụ thể, với ngành thép, một số doanh nghiệp đã phải chấp nhận bán sản phẩm thấp hơn giá vốn 30-40% để có dòng tiền hoạt động với chi phí vay lãi rất cao trong lúc chờ đợt phân bổ chỉ tiêu tín dụng tiếp theo. Ngay cả ông lớn đầu ngành thép là Tập đoàn Hòa Phát cũng đã phải đóng cửa 4/7 lò cao, lỗ tới 1.800 tỷ đồng trong quý III/2022.
Với ngành công nghiệp hỗ trợ, room tín dụng cạn kiệt cũng khiến các doanh nghiệp ngành này không thể tiếp nhận và ký kết hợp đồng mới, đối mặt với nguy cơ bị bật ra khỏi chuỗi cung ứng do thiếu vốn để đầu tư máy móc, công nghệ mới sau những đòi hỏi từ các thị trường khó tính.
Hay với ngành nông nghiệp, thiếu vốn khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong thu mua, trong khi một số nông sản (đặc biệt các loại hạt nguyên liệu) có kỳ thu mua tập trung ở các tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023.
Tình thế chông chênh do nguồn vốn cạn kiệt không chỉ ảnh hưởng đến khả năng hồi phục trước mắt của doanh nghiệp, mà còn khiến các doanh nghiệp trong nước có nguy cơ bị doanh nghiệp nước ngoài thôn tính, làm giảm sức cạnh tranh thực chất của doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam.
“Trong bối cảnh niềm tin thị trường xuống thấp, cạn vốn lưu động, cạn dòng đầu tư, các tài sản của doanh nghiệp có nguy cơ bị bán tháo. Thậm chí, thông tin từ doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp cho thấy, có thể xuất hiện làn sóng bán nhà máy/cơ sở sản xuất của doanh nghiệp Việt cho nhà đầu tư nước ngoài, với điển hình là doanh nghiệp Thái Lan đang tiến hành nhiều thương vụ đàm phán mua bán các nhà máy dệt may và sản xuất lĩnh vực khác”, Ban IV nhận định.
Hiệu ứng tuyết lở bắt đầu lan rộng
Khi sự kiện Tân Hoàng Minh xảy ra (tháng 4/2022), có lẽ, không ai ngờ “quả bom” trái phiếu lại vỡ nhanh như hiện nay, kéo theo hiểm họa vỡ nợ chéo. Đặc biệt, trong vòng hơn 1 tháng qua, làn sóng tháo chạy khỏi trái phiếu (bond run) diễn ra trên phạm vi rộng. Tính tới thời điểm này, doanh nghiệp đã phải mua lại gần 160.000 tỷ đồng trái phiếu trước hạn (tăng hơn 50% so với cùng kỳ năm ngoái), trong khi phát hành trái phiếu mới sụt giảm tới 54%. Làn sóng bond run cũng kéo theo phong trào fund run (tháo chạy khỏi các quỹ đầu tư trái phiếu), đẩy một số quỹ đầu tư trái phiếu đứng trước rủi ro thanh khoản.
Từng là phao cứu sinh về vốn, trái phiếu giờ đây trở thành bom nổ chậm với nhiều doanh nghiệp. Lượng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn trong năm 2023 và 2024 chỉ tính riêng lĩnh vực bất động sản đã lên tới 231.000 tỷ đồng, chưa kể trái phiếu doanh nghiệp phải mua trước hạn. Điều này cho thấy, sức ép trả nợ của doanh nghiệp vô cùng lớn.
Bom nợ trái phiếu đã dẫn truyền tới thị trường chứng khoán khi khủng hoảng niềm tin lan rộng. So với cuối năm ngoái, giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán đã giảm tới 50%, tương đương khoảng 160 tỷ USD đã bị bốc hơi.
Trong khi đó, trước áp lực lạm phát, lãi suất, tỷ giá và thanh khoản, tín dụng ngân hàng cũng bị siết chặt. Nếu như 6 tháng đầu năm, tín dụng tăng bình quân 1,56%/tháng, thì 4 tháng gần đây, tín dụng chỉ tăng trung bình 0,5%/tháng. Thậm chí, những tháng gần đây, có ngân hàng còn tăng trưởng tín dụng âm.
Trên thực tế, tăng trưởng tín dụng năm nay không hề thấp, nhưng thị trường trái phiếu doanh nghiệp và chứng khoán sụt giảm đã gây áp lực lớn cho tín dụng ngân hàng. Trong khi đó, cú sốc thanh khoản cục bộ tháng 10/2022 sau sự cố Vạn Thịnh Phát và Ngân hàng SCB buộc Ngân hàng Nhà nước càng thận trọng hơn với room tín dụng. Sự thận trọng này là dễ hiểu bởi tỷ lệ cho vay/huy động của nhiều ngân hàng đã ở mức báo động, đặc biệt với các ngân hàng nhỏ.
Dù vậy, cả ba trụ cột của thị trường vốn – trái phiếu, tín dụng, chứng khoán – bị tắc nghẽn đột ngột cùng một thời điểm, khiến doanh nghiệp không kịp trở tay. Tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau diễn ra tràn lan, dòng tiền kinh doanh của nhiều doanh nghiệp âm nặng, dù báo cáo tài chính vẫn ghi nhận có lãi.
“Thống kê của chúng tôi cho thấy, lượng vốn doanh nghiệp chiếm dụng lẫn nhau lên tới hàng trăm ngàn tỷ đồng. Riêng 6 tập đoàn lớn, số vốn chiếm dụng lẫn nhau lên tới 200.000 tỷ đồng. Đáng nói, phần lớn vốn chiếm dụng này có nguồn gốc từ ngân hàng. Điều này làm tăng nguy cơ nợ xấu và thanh khoản của các ngân hàng thương mại”, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cảnh báo.
Theo các chuyên gia, câu chuyện của Việt Nam hiện nay giống với tình trạng diễn ra tại Trung Quốc, Hàn Quốc: khủng hoảng khan hiếm thanh khoản bắt nguồn từ thị trường trái phiếu và bất động sản, sau đó lan sang toàn bộ nền kinh tế. Do đó, tháo gỡ ngòi nổ thị trường trái phiếu chính là tâm điểm để giải cứu dòng tiền hiện nay.
“Nhiều người cho rằng, Nhà nước hãy để mặc thị trường trái phiếu, không cần cứu bất động sản. Tuy nhiên, vấn đề hiện nay không chỉ là bất động sản, mà là thanh khoản của toàn bộ nền kinh tế”, TS. Lê Xuân Nghĩa phân tích.
Trong khi đó, ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup cho rằng, nếu không tháo gỡ, sẽ có 3 rủi ro lớn xảy ra.
Thứ nhất, bất ổn xã hội gia tăng khi các trái chủ (đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân) mất niềm tin, tiếp tục tháo chạy khỏi trái phiếu, gây ảnh hưởng tiêu cực đến cả lĩnh vực ngân hàng và thị trường chứng khoán.
Thứ hai, vỡ nợ trái phiếu và vi phạm chéo tiếp tục lan rộng.
Thứ ba, khủng hoảng thanh khoản nợ doanh nghiệp sẽ ngày càng trầm trọng, từ đó gia tăng nợ xấu ngân hàng.
Đó là chưa nói tới rủi ro tháo chạy của dòng vốn ngoại và bỏ lỡ mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023.
Mặc dù áp lực đáo hạn trái phiếu trong tháng cuối cùng của năm 2022 đã giảm, song sẽ tăng trở lại vào năm 2023 và năm 2024, khi một lượng lớn trái phiếu sắp đến kỳ đáo hạn. Đây là lý do, Việt Nam cũng phải nhanh chóng hành động để “cứu dòng tiền” trước khi quá muộn, tránh dẫm vào vết xe đổ của các nước.
Họp nóng với Bộ Tài chính: Doanh nghiệp không xin tiền, chỉ xin gỡ cơ chế
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc vừa chủ trì cuộc họp về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp. Bảy công ty chứng khoán và 32 doanh nghiệp phát hành trái phiếu đã tham dự.
Phát biểu tại cuộc họp chiều nay, ông Nguyễn Vũ Long, Tổng giám đốc của VNDIRECT, nút thắt lớn nhất hiện nay đối với thị trường trái phiếu là dòng vốn thanh khoản của doanh nghiệp. Trái phiếu đóng băng trong khi tín dụng đã hết room, thị trường cổ phiếu khó khăn. Trong ngắn hạn điều quan trọng nhất là phải duy trì thanh khoản để các doanh nghiệp có dòng vốn lưu thông từ đó mới có thể tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh.
“Niềm tin của nhà đầu tư đối với thị trường rất quan trọng. Một số sự việc xảy ra thời gian gần đây ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của nhà đầu tư, do đó cần lấy lại niềm tin của nhà đầu tư đối với thị trường vốn. Nhà đầu tư cần biết rằng đây chỉ là những “con sâu làm rầu nồi canh”, là một phần trên thị trường chứ không phải bức tranh của toàn bộ thị trường trái phiếu doanh nghiệp”, ông Nguyễn Vũ Long nêu ý kiến.
Tham gia ý kiến tại buổi làm việc, bà Trần Thị Thu Trang, Phó tổng giám đốc Công ty CP Chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội cũng cho biết, các doanh nghiệp đang bị ách tắc về việc huy động vốn trên thị trường. Trong khi sắp tới lượng trái phiếu đáo hạn thì cũng tạo áp lực cho doanh nghiệp trong giai đoạn tới là họ chưa có khả năng tìm được nguồn vốn bù đắp hoặc cơ cấu lại các khoản nợ của mình.
Bà Trang bày tỏ mong muốn làm sao có thể tăng thêm khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trên thị trường, tập trung vào thị trường phát hành ra công chúng. Để khuyến khích doanh nghiệp tập trung kênh này thì các cơ quan nhà nước có thể xem xét lại về quy trình thủ tục, sao cho tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích doanh nghiệp phát hành ra công chúng nhiều hơn.
Đại diện cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, ông Lê Quốc Bình, Tổng giám đốc Cty CP Đầu tư Hạ tầng kỹ thuật TP. HCM cho hay, hiện nay, dòng tiền của các doanh nghiệp đang rất khó khăn, nhưng doanh nghiệp phải chủ động xoay xở tất cả các kênh huy động, thậm chí phải bán rẻ tài sản, hạ giá sản phẩm để thu hồi dòng tiền về mà thực hiện đúng cam kết với các nhà đầu tư trái phiếu. Có như vậy thì niềm tin của nhà đầu tư trái phiếu mới được vực dậy và thị trường trái phiếu doanh nghiệp mới có thể tiếp tục phát triển.
“Điều doanh nghiệp mong muốn không phải hỗ trợ bằng tiền mà cần hỗ trợ bằng việc giải quyết các hồ sơ pháp lý cho các dự án, đặc biệt là các dự án bất động sản có thể giải quyết nhanh để các nhà đầu tư trong các dự án bất động sản có thể đưa sản phẩm ra thị trường sớm để có điều kiệnbán được với giá rẻ và thu hồi vốn thực hiện việc trả nợ trái phiếu cho các nhà đầu tư đúng hạn. Doanh nghiệp phải luôn luôn xác định việc thực hiện nghĩa vụ nợ trái phiếu cho các nhà đầu tư là một việc đặc biệt quan trọng để giữ chữ tín của doanh nghiệp trên thị trường”, ông Bình khẳng định.
Theo đánh giá của Bộ trưởng Hồ Đức Phớc, hiện nay triển vọng về kinh tế Việt Nam vẫn được các định chế tài chính đánh giá rất cao, tăng trưởng GDP năm nay có thể đạt 8%; thu NSNN có thể vượt khoảng 14,5%, CPI dưới 4%, bội chi ngân sách dưới 4%. Có thể thấy, về chỉ số kinh tế vĩ mô thời điểm này vẫn tăng trưởng tốt, nhưng nếu không có biện pháp gì để thúc đẩy thị trường, đặc biệt là thúc đẩy sản xuất kinh doanh thì sẽ rất khó khăn trong tương lai.
Về trái phiếu doanh nghiệp, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc khẳng định, trái phiếu doanh nghiệp luôn xác định là một công cụ của thị trường vốn trung và dài hạn quan trọng cho các doanh nghiệp và nền kinh tế, qua đó hỗ trợ giảm áp lực lên kênh tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, tính đến 30/9/2022, toàn thị trường có 1,26 triệu tỷ đồng, tức gần 10% so với dư nợ vay ngân hàng thương mại. Thời gian vừa qua, có một số doanh nghiệp vi phạm pháp luật trong vấn đề phát hành bị xử lý hình sự, gây ra tâm lý hoang mang, dẫn đến nhà đầu tư đua nhau đi rút tiền, doanh nghiệp đi vay gặp khó khăn.
Vì vậy, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc mong muốn cuộc làm việc với các công ty chứng khoán và doanh nghiệp phát hành có thể tìm ra giải pháp nhằm giúp thị trường chứng khoán quay trở lại bình thường và tiếp tục phát triển, cũng như tìm ra giải pháp để củng cố niềm tin cho trị trường trái phiếu và tăng cường tính thanh khoản.
Trao đổi với báo chí bên lề cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi cũng cho biết, Bộ Tài chính sẽ tổng hợp và có cuộc làm việc với các bộ, ngành có liên quan để báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để đưa ra các giải pháp trước mắt cũng như lâu dài nhằm củng cố niềm tin của thị trường, đưa thị trường tiếp tục phát triển một cách bền vững. Bên cạnh đó là đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, để các nhà đầu tư sớm quay lại thị trường và có được sự phát triển của thị trường mạnh mẽ trong thời gian tới, giúp cho doanh nghiệp huy động được vốn trên thị trường, đồng thời yêu các doanh nghiệp có trách nhiệm một cách đầy đủ với các nhà đầu tư theo những gì mà doanh nghiệp đã cam kết.
Thứ trưởng cũng khẳng định rà soát khung pháp lý, kể cả Nghị định 65/2022/NĐ-CP vừa được phát hành, lắng nghe ý kiến của các doanh nghiệp để có báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để có sự điều chỉnh phù hợp.
Ôm 284.000 tỷ đồng TPDN, một số ngân hàng có nguy cơ lỗ với danh mục trái phiếu
Quy mô trái phiếu nắm giữ chỉ chiếm 2,47% tổng tài sản sinh lời của ngân hàng và ít có khả năng lây truyền rủi ro do chất lượng trái phiếu được ngân hàng thẩm định kỹ, trích lập dự phòng đầy đủ.
Báo cáo của FiinGroup cho thấy, các ngân hàng hiện nay giữ danh mục trái phiếu doanh nghiệp (phi ngân hàng) quy mô 284 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 2,47% trên tổng tài sản sinh lời tại 30/6/2022.
Trong nửa đầu năm, nhiều ngân hàng tăng cường phân bổ thêm tỷ trọng vào chứng khoán đầu tư để tối ưu hóa hiệu suất sử dụng vốn khi mà tốc độ huy động vốn còn nhanh hơn tăng trưởng tín dụng. Trước các biến động của thị trường TPDN, xu hướng này sau đó đã có dấu hiệu đảo chiều nhằm giảm bớt rủi ro, ngoài ra cũng để tạo dư địa cho vay ở các tháng cuối năm khi “room” tín dụng cạn kiệt.
Trong bối cảnh NHNN tiếp tục nâng lãi suất điều hành và nhiều thông tin bất lợi trên thị trường, lợi suất TPCP và TPDN đã đồng loạt quay đầu giảm giá trong thời gian qua do gia tăng cả lãi suất tham chiếu lẫn phần bù rủi ro. Trước tình hình này, FiinGroup dự báo danh mục trái phiếu của vài ngân hàng tiếp tục ghi nhận lỗ chưa thực hiện trong quý tới.
Theo thống kê của FiinGroup, Top 5 ngân hàng có lượng tpdn nắm giữ lớn nhất hiện nay là: MB, Techcombank, VBank, TPBank và SHB.
Tuy nhiên, rủi ro tín dụng trong hệ thống sẽ có sự phân hóa rõ rệt, ít ảnh hưởng tới các ngân hàng có quy mô nắm giữ TPDN nhỏ so với tổng tài sản có sinh lãi, chất lượng TPDN đa dạng và được thẩm định rủi ro kỹ lưỡng. Đây cũng không phải một vấn đề lớn nếu ngân hàng có trích lập dự phòng giảm giá đầy đủ.
Ngân hàng Nhà nước: Dư địa tăng tín dụng vẫn còn, giữ nguyên room 14%
Ngân hàng Nhà nước vừa có công văn gửi các tổ chức tín dụng về tăng trưởng tín dụng năm 2022. Theo đó, qua theo dõi tình hình thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của các tổ chức tín dụng cho thấy, đến nay tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 11,5%, so với chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng toàn hệ thống năm 2022 khoảng 14%. Do vậy, vẫn còn dư địa để các tổ chức tín dụng tiếp tục tăng trưởng tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp, người dân, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Ngân Nhà nước Việt Nam yêu cầu các tổ chức tín dụng còn hạn mức tăng trưởng tín dụng chủ động cân đối điều hòa nguồn vốn, tỷ lệ đảm bảo an toàn, tích ực giải ngân tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) và các lĩnh vực là động lực tăng trưởng của nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ.
Dù vậy, Ngân hàng nhà nước cũng nhắc nhở, việc tăng trưởng tín dụng phải trên cơ sở đảm bảo thanh khoản ổn định, an toàn hoạt động ngân hàng, tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng với các lĩnh vực tiềm ẩn rui ro.
Thời gian tới, NHNN sẽ căn cứ vào diễn biến tình hình của hệ thống và từng tổ chức tín dụng để có giải pháp điều hành phù hợp theo chủ trương của Chính phủ.
M&A lĩnh vực ngân hàng: Tâm điểm sẽ là nhà băng yếu kém
Tâm điểm mua bán – sáp nhập (M&A) lĩnh vực ngân hàng thời gian tới sẽ là các thương vụ chuyển giao bắt buộc nhà băng yếu kém và một vài thương vụ đã đàm phán từ lâu.
Thương vụ M&A tỷ USD được kỳ vọng nhất năm nay là VPBank bán 15% vốn cho đối tác chiến lược nước ngoài. Tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2022, Chủ tịch VPBank cho biết, quá trình đàm phán diễn ra hết sức tích cực và việc bán vốn có thể hoàn thành trong quý III/2022. Tuy nhiên, gần như chắc chắn, thương vụ này không thể hoàn tất trong năm nay.
Trao đổi với nhà đầu tư mới đây, bà Lưu Thị Thảo, Phó tổng giám đốc VPBank cho hay, quá trình làm việc với đối tác vẫn đang diễn ra tốt đẹp. Dẫu vậy, trong bối cảnh thị trường có nhiều bất ổn như hiện nay, nhà đầu tư có sự trì hoãn nhất định trong việc đưa ra quyết định, khiến lộ trình bán 15% cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài chậm hơn dự kiến.
Một thương vụ nữa cũng được kỳ vọng trong năm nay là MSB bán một phần hoặc toàn bộ vốn tại Công ty tài chính TNHH một thành viên cộng đồng (FCCOM). Tuy vậy, đến nay, kế hoạch thoái vốn của MSB vẫn chưa thành công do thị trường cho vay tiêu dùng Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19.
Năm ngoái, khi thị trường M&A công ty tài chính sôi động, HAFIC từng nằm trong tầm ngắm của một loạt định chế tài chính như TPBank, AFS (Nhật Bản), KB Kookmin Card (Hàn Quốc). Dù vậy, tình hình kinh tế trong và ngoài nước nhiều biến động trong năm nay đã khiến các định chế tài chính này thận trọng hơn với kế hoạch mở rộng kinh doanh.
Kinh tế toàn cầu đang gặp nhiều biến động khiến các nhà đầu tư ngại ngần rót vốn đầu tư mới. Đặc biệt, vốn đầu tư từ các nước phát triển đổ vào các thị trường mới nổi đang có dấu hiệu suy giảm.
Tuy vậy, theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam vẫn rất hấp dẫn do nhu cầu tín dụng cao, tầng lớp trung lưu tăng nhanh và mảng bán lẻ vẫn còn nhiều dư địa phát triển.
Trong khi các thương vụ chào bán cổ phần chiến lược hoặc bán công ty tài chính có thể sẽ còn tiếp tục bị trì hoãn, thì tâm điểm M&A thị trường đang tập trung vào các thương vụ chuyển giao bắt buộc ngân hàng yếu kém.
Dù chưa cái tên nào chính thức được công bố, song với các động thái của các ngân hàng thương mại gần đây, có thể thấy, nhiều thương vụ đã gần như được “chốt sổ”, như MB nhận chuyển giao bắt buộc Ocean Bank, Vietcombank nhận chuyển giao bắt buộc CBBank, DongABank có thể sẽ về HDBank, còn GP Bank sẽ do VPBank nhận chuyển giao bắt buộc.
Từ đầu năm đến nay, lãnh đạo MB liên tục xuất hiện trong các hoạt động, sự kiện lớn của Ocean Bank. Hai bên đã ký thỏa thuận hợp tác chiến lược. Giữa tháng 10/2022, Ocean Bank và MB Ageas Life đã ký kết thỏa thuận hợp tác.
Vietcombank là ngân hàng thứ hai lấy ý kiến cổ đông về việc nhận chuyển giao bắt buộc một ngân hàng yếu kém. Tuy vậy, thương vụ M&A của Vietcombank không chứa đựng yếu tố bất ngờ nào, bởi đối tác nhận chuyển giao bắt buộc gần như chắc chắn là CBBank – ngân hàng yếu kém mà Vietcombank được giao nhiệm vụ hỗ trợ từ năm 2015.
Riêng với GP Bank, việc chuyển giao bắt buộc cho VPBank vẫn chưa được xác thực. Tuy nhiên, tại Lễ công bố Quyết định bổ nhiệm lãnh đạo, quản lý GP Bank vào tháng 9/2022, một loạt lãnh đạo VPBank đã tham dự.
Bà Lưu Thị Thảo cho hay, việc VPBank nhận chuyển giao bắt buộc ngân hàng yếu kém là muốn cùng Chính phủ xử lý ngân hàng yếu kém, song vẫn trên nguyên tắc bảo vệ quyền lợi cổ đông, có lợi cho VPBank.
Cách đây không lâu, HDBank cũng lấy ý kiến cổ đông và được cổ đông thông qua phương án nhận chuyển giao bắt buộc một ngân hàng yếu kém. Ông Phạm Quốc Thanh, Tổng giám đốc HDBank cho hay, không nhiều tổ chức tín dụng được các cấp có thẩm quyền lựa chọn tham gia chương trình này. Việc HDBank được lựa chọn cho thấy sự tin tưởng của cơ quan chức năng đối với năng lực, kinh nghiệm thực hiện tái cấu trúc của HDBank, cũng như đánh giá cao phương án tái cơ cấu mà HDBank đã chuẩn bị cho trọng trách này.
Điểm chung của tất cả thương vụ ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc ngân hàng yếu kém lần này là hình thức M&A khác hoàn toàn với giai đoạn trước. Theo đó, các ngân hàng yếu kém được các ngân hàng lớn nhận về theo mô hình công ty con (mô hình mẹ – con). Ngân hàng yếu được nhận chuyển giao bắt buộc sẽ hoạt động dưới hình thức ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên do ngân hàng nhận chuyển giao là chủ sở hữu 100% vốn điều lệ.
Các ngân hàng “con” được nhận chuyển giao bắt buộc này có pháp nhân độc lập với ngân hàng nhận chuyển giao, không thực hiện hợp nhất báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, cách tính các chỉ số an toàn vốn, chính sách về cổ tức, phân phối lợi nhuận, trích lập các quỹ… cũng độc lập giữa ngân hàng con và ngân hàng mẹ.
Với sự tham gia của các ngân hàng lớn giàu tiềm lực, các ngân hàng yếu sẽ được tiếp cận nguồn tiền tươi cũng như tăng cơ hội cho vay, bán chéo sản phẩm, đổi mới năng lực quản trị… Đương nhiên, các ngân hàng lớn cũng có những “phần thưởng” hấp dẫn, như được nới thêm room tăng trưởng tín dụng, mở rộng mạng lưới…
Do M&A theo mô hình mẹ – con, việc xử lý các ngân hàng phải chuyển giao bắt buộc sau khi hết lỗ vẫn còn để ngỏ. Cả ba phương án đều đang được các ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc tính tới, bao gồm: sáp nhập vào ngân hàng mẹ để tăng quy mô tổng tài sản và thị phần; bán cho nhà đầu tư khác; thành lập một ngân hàng TMCP riêng và IPO.
Mặc dù phải 7-10 năm, quá trình chuyển giao bắt buộc ngân hàng yếu mới kết thúc, song với sự tham gia M&A của các ngân hàng lớn, việc tái cơ cấu ngân hàng yếu sẽ được đẩy nhanh hơn, nhằm thực hiện thành công Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 – 2025.
M&A tài chính – ngân hàng gia tăng sức hút với nhà đầu tư Nhật Bản
Ông Masataka “Sam” Yoshida, Giám đốc toàn cầu dịch vụ mua bán – sáp nhập (M&A) xuyên quốc gia của RECOF Corporation (Nhật Bản) cho rằng, khi lĩnh vực tài chính – ngân hàng tại Việt Nam tiếp tục thu hút các nhà đầu tư, các nhà bán lẻ Nhật Bản, nhất là khi Chính phủ, ngân hàng Nhà nước đang nỗ lực tái cấu trúc ngành tài chính và những ngân hàng yếu kém, thì sẽ thúc đẩy làn sóng M&A lĩnh vực này gia tăng.
Dù năm 2022 có phần chững lại so với các năm trước, thị trường tài chính Việt Nam vẫn có dấu hiệu tích cực với sự phát triển của các công ty công nghệ tài chính và dịch vụ tài chính số. Những công ty công nghệ tài chính đầu ngành như VNPAY, MoMo đã thành công trong việc gọi hàng triệu đô la từ các nhà đầu tư nước ngoài.
Các ngân hàng lớn trong nước và khu vực thực hiện các thương vụ M&A thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài và hợp nhất. Động lực của các thương vụ này là nhu cầu của các ngân hàng nước ngoài nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn từ các nền kinh tế đang phát triển và nhu cầu của các ngân hàng trong nước nhằm đáp ứng các quy định về vốn và phát triển ngân hàng điện tử.
Theo ông Masataka “Sam” Yoshida huyên gia, nền kinh tế toàn cầu năm 2023 có thể vẫn dễ tổn thương. Sự tăng trưởng nhanh trong hoạt động M&A toàn cầu là điều khó có thể xảy ra trong tương lai gần, do những biến động của thị trường chứng khoán, lãi suất tăng cao, cũng như bất ổn trong nền kinh tế.
Trong hơn một thập kỷ qua, cả 3 ngân hàng lớn nhất của Nhật Bản đều đã trở thành nhà đầu tư chiến lược của những ngân hàng lớn nhất Việt Nam. Việc này khiến các ngân hàng và định chế tài chính khác của Nhật Bản có thể gặp khó khăn trong việc bắt kịp thị trường.
Tuy nhiên, khi lĩnh vực tài chính tại Việt Nam tiếp tục thu hút các nhà đầu tư, chúng tôi dự đoán, các nhà bán lẻ Nhật Bản, như các chuỗi siêu thị, cửa hàng tiện lợi (có nguồn vốn dồi dào và bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ở Nhật Bản), sẽ tìm cách thiết lập và phát triển hoạt động tài chính tại Việt Nam dựa trên chuỗi cửa hàng bán lẻ đang tăng trưởng của họ.
Bên cạnh đó, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang nỗ lực từng bước tái cấu trúc ngành tài chính – ngân hàng. Các ngân hàng yếu kém và đang tái cơ cấu sẽ khó tránh khỏi M&A.
Các tổ chức tài chính lớn ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore đang phải đối mặt với những thách thức trong nước, gồm dân số giảm, tiềm năng tăng trưởng hạn chế và chính sách lãi suất thấp. Do đó, họ đang nỗ lực thực hiện M&A xuyên quốc gia, đặc biệt ở khu vực Đông Nam Á, nhằm tìm kiếm tăng trưởng dài hạn. Việt Nam đã thu hút các tổ chức nước ngoài muốn cung cấp các giải pháp tài chính và tín dụng cho cá nhân, doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa.
Nguồn vốn Nhật Bản đổ vào Việt Nam những năm qua đã góp phần giúp các tổ chức tài chính trong nước cải thiện việc quản lý nợ xấu, tăng tỷ lệ an toàn vốn và đẩy nhanh việc áp dụng các tiêu chuẩn Basel. Ngoài ra, các tổ chức tài chính Nhật Bản, với sự vượt trội về công nghệ tín dụng, sản phẩm, kinh nghiệm quản lý, đã góp phần giúp các ngân hàng Việt Nam nâng cao năng lực công nghệ, năng suất lao động, quản trị doanh nghiệp và rộng hơn là nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Trong 2 năm Covid-19, bên cạnh kết quả đạt được, ngành tài chính – ngân hàng Việt Nam cũng bộc lộ nhiều bất cập. Liệu làn sóng M&A lĩnh vực này có sôi động hơn khi có nhiều đơn vị thua lỗ?
Bức tranh kinh tế vĩ mô cho thấy, còn nhiều biến động phức tạp trong ngắn hạn, không chỉ đối với thị trường tài chính Việt Nam, mà còn ở tầm khu vực và trên toàn cầu. Lãi suất cao hơn có thể làm giảm biên lãi ròng của các ngân hàng, song lạm phát kéo dài, nguồn tiết kiệm cạn kiệt, suy thoái kinh tế có thể xảy ra sẽ khiến khách hàng không sẵn sàng chi tiêu và tiến hành hoạt động kinh doanh.
Mặc cho những thách thức hiện hữu, chúng tôi cho rằng, M&A lĩnh vực tài chính – ngân hàng của Việt Nam tiếp tục có tiềm năng tăng trưởng tốt trong dài hạn, bởi các động lực tăng trưởng chính vẫn còn và quá trình chuyển đổi số trong ngành sẽ thúc đẩy hoạt động M&A. Cơ hội M&A sẽ dành cho các nhà đầu tư tiềm năng có nền tảng tài chính vững chắc, có sản phẩm công nghệ tốt và lựa chọn phân khúc khách hàng phù hợp.
Rủi ro trái phiếu, bất động sản khiến triển vọng lợi nhuận ngân hàng chậm lại năm 2023
SSI Research vừa cập nhật báo cáo triển vọng ngành ngân hàng. Theo phân tích của nhóm chuyên gia từ SSI, thời gian gần đây, ngày càng nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động vốn(và tái cơ cấu nợ) cho hoạt động kinh doanh, làm gia tăng rủi ro liên quan đến khả năng trả nợ. Một số doanh nghiệp đã yêu cầu hoãn thanh toán gốc (và thanh toán lãi).
Tổng số trái phiếu sau khi loại trừ nhóm trái phiếu do ngân hàng phát hành hiện đang lưu hành là khoảng 945 nghìn tỷ đồng, trong đó 27% sẽ đáo hạn vào năm 2023 và 2024, và 12% sẽ đáo hạn vào năm 2025. Gần một phần ba số trái phiếu này nằm trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Tuy nhiên, con số này vẫn không bao gồm những trái phiếu đã được phân phối cho các nhà đầu tư cá nhân nhưng có bảo lãnh thanh toán, cũng như những trái phiếu hiện không có trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn sẽ chịu rủi ro tín dung liên quan (đối với những trái phiếu theo hợp đồng repo).
Nhiều chủ đầu tư bất động sản đang phải đối mặt với nhiều khó khăn với lượng hàng tồn kho tăng lên, doanh số bán hàng giảm và chịu áp lực đáng kể về dòng tiền ngắn hạn khi một số trái phiếu sắp đến ngày đáo hạn, đặc biệt là trong giai đoạn từ tháng 12 năm 2022 đến tháng 3 năm 2023.
Lãi suất cho vay mua nhà đã tăng lên (phổ biến ở mức 13-15%/năm) cũng đã gây ra sự do dự của những người mua nhà tiềm năng mặc dù một số chủ đầu tư bất động sản đã giảm giá 30-40% cho những người mua nhà có sẵn tiền mặt (với tỷ lệ thanh toán trước là 90%).
Chẳng hạn tại TP.HCM, số lượng căn hộ được giao dịch trong quý 3/2022 chỉ đạt 900 căn, giảm 89% so với quý 2/2022. Tỷ lệ hấp thụ đạt 15-35% đối với các Dự án mới, mức thấp nhất kể từ năm 2019. Tình hình khả quan hơn tại thị trường Hà Nội, nơi có tỷ lệ hấp thụ đạt 50% nhưng lượng hàng tồn kho căn hộ trên 4 tỷ đồng vẫn chưa có dấu hiệu giảm.
Đáng nói, theo quan sát của SSI Research, phần lớn phần các giao dịch mua nhà vẫn với mục đích đầu cơ, mua nhà do lịch trả nợ hấp dẫn. Do đó, khi hết thời gian ân hạn và lãi suất cho vay hết ưu đãi, nhiều khả năng người sở hữu bất động sản sẽ bán lại bất động sản đó để trả nợ vay là tương đối cao. Do đó, SSI dự báo làn sóng giảm giá bán bất động sản sẽ có thể còn tiếp tục đến cuối năm, với mức giảm có thể từ 10-20% hoặc thậm chí cao hơn.
Đối với những người mua đầu cơ chưa thể bán lại bất động sản để tất toán khoản vay, tỷ lệ nợ quá hạn đối với các khoản vay mua nhà có thể tăng trong thời gian tới. Tổng dư nợ toàn bộ các khoản cho vay mua nhà tại các ngân hàng được SSI tính toán ở mức khoảng 1,3 triệu tỷ đồng.
“Chúng tôi duy trì quan điểm rằng các ngân hàng sẽ phải đối mặt với vấn đề chất lượng tài sản trong thời gian tới. Trừ khi có các quy định đặc biệt về phân loại nợ/trích lập dự phòng cho các khoản vay/trái phiếu đáo hạn vào năm 2023 được thực hiện, nợ xấu và trích lập dự phòng sẽ là những áp lực tương đối lớn”, báo cáo nhận định.
SSI Research cho rằng, rủi ro liên quan đến bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp và xu hướng lãi suất tăng cùng với sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế chưa được phản ảnh hoàn toàn vào định giá cổ phiếu ngân hàng.
Dự báo lợi nhuận ngành ngân hàng năm 2023 được SSI Research điều chỉnh thành 231 nghìn tỷ đồng (tăng 10% so với cùng kỳ, giảm từ mức tăng 17% so với cùng kỳ trong báo cáo trước đây của tổ chức này). Các ngân hàng có tăng trưởng lợi nhuận mạnh nhất bao gồm ba ngân hàng thương mại có vốn nhà nước và vài ngân hàng TMCP tư nhân.
Do áp lực lạm phát vẫn hiện hữu, ít nhất là trong nửa đầu năm 2023, SSI Research cho rằng NHNN có thể tiếp tục thắt chặt tiền tệ trong thời gian tới. Tín dụng cấp cho lĩnh vực bất động sản có thể vẫn sẽ chịu sự giám sát chặt chẽ. Hoạt động cho vay mua nhà cũng sẽ giảm tốc do nguồn cung nhà ở mới hạn chế và lãi suất cho vay mua nhà không còn ở mức hấp dẫn. Trong khi đó, xuất khẩu được dự đoán sẽ giảm tốc từ quý 4 năm 2022. Không loại trừ khả năng NHNN sẽ phải có thêm một đợt tăng lãi suất nữa nhằm duy trì môi trường tỷ giá ổn định.
Theo đó, lãi suất huy động và cho vay có thể sẽ tiếp tục tăng năm tới. Nợ xấu cũng sẽ tăng lên. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu sẽ giảm từ 156% vào năm 2022 xuống còn 126% vào cuối 2023 và tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng lên 1,76% (so với 1,46% năm 2022 và 1,26% năm 2021).
Mặc dù vậy, lãi suất tăng sẽ giúp ngành ngân hàng tăng trưởng huy động nhanh hơn (13,8%), giúp thanh khoản hệ thống trở nên lành mạnh hơn.
Có thể xem xét nới thêm room tín dụng cho một số lĩnh vực
TS. Huỳnh Trung Minh, chuyên gia tài chính cho rằng, trong bối cảnh doanh nghiệp đang có nhu cầu cao về vốn, đáp ứng kế hoạch sản xuất, kinh doanh cuối năm, thì việc nới thêm room vẫn cần thiết.
Theo chuyên gia này, thông thường, quý IV hàng năm, nhu cầu vốn của khách hàng, nhất là đối với doanh nghiệp luôn tăng, vì nhu cầu tích trữ hàng hóa phục vụ dịp lễ, tết cuối năm. Nhưng thực tế hiện nay, hầu hết nhà băng cạn room và rất khó đẩy mạnh vốn cho vay. Các nhà băng đang chờ đến tháng 1/2023 để được mở room mới, có dư địa cho vay.
Trong bối cảnh hiện nay, nhu cầu vốn của khách hàng, nhất là đối với doanh nghiệp tăng trong mùa kinh doanh cao điểm cuối năm, trong khi ngân hàng cạn room không thể đẩy mạnh cho vay. Vì thế, quan điểm của tôi là vẫn có thể xem xét nới thêm room tín dụng cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu trong thời gian còn lại của năm 2022. Room tín dụng mới cũng nên chọn lọc những nhà băng có năng lực và Hệ số An toàn vốn (CAR) cao. Đồng thời, nguồn vốn tín dụng được nới thêm cần hướng vào lĩnh vực ưu tiên, sản xuất, kinh doanh, để hỗ trợ các doanh nghiệp có nhu cầu tích trữ hàng hóa, phục vụ cho thị trường dịp cuối năm.
Việc kiểm soát lạm phát đã được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước thực hiện rất tốt trong thời gian qua. So với các nước trong khu vực, lạm phát của Việt Nam ở mức thấp, nên cũng không quá lo ngại việc nới thêm một chút room tín dụng sẽ tác động lên lạm phát. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, xu hướng mặt bằng lãi suất đang dần đi lên hiện nay sẽ khó dừng lại trong những tháng cuối năm 2022, bởi đây là giai đoạn cầu vốn cao, kinh doanh vốn cao điểm, trong khi room tín dụng hạn chế.
Để giảm bớt áp lực lên tỷ giá khi Fed liên tục tăng lãi suất, mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã nới biên độ tỷ giá lên 5%. Lúc này, chênh lệch giữa tỷ giá chợ đen và tỷ giá ngân hàng sẽ được thu hẹp và giảm tình trạng đầu cơ, tích trữ USD. Các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ cũng sẽ sớm bán lại cho ngân hàng để đảm bảo an toàn và tránh rủi ro, đồng thời duy trì mối quan hệ lâu dài với các ngân hàng.
Khi điều chỉnh biên độ tỷ giá lên 5%, thì nguồn thu ngoại tệ cũng sẽ nhiều hơn, trong khi Ngân hàng Nhà nước bán ra ít hơn để điều tiết thị trường như trước đó. Thực tế, điều hành tỷ giá trong thời gian qua cũng có những khó khăn nhất định trước áp lực tăng lãi suất của Fed và các nước trong khu vực, cũng như thế giới phải tăng giá trị đồng nội tệ. Đáng chú ý là, khi Fed liên tục tăng lãi suất USD trong thời gian qua đã thu hút nguồn vốn USD quay về thị trường Mỹ, nên khó tránh ảnh hưởng dòng vốn đối với các nước đang phát triển.
Do đó, doanh nghiệp Việt Nam, nhất là ngân hàng muốn vay vốn nước ngoài, phải trả lãi suất cao hơn, nên khó tìm được nguồn vốn nước ngoài giá rẻ như trước đây. Còn với doanh nghiệp nhập khẩu, kể cả với doanh nghiệp xuất khẩu dùng nguyên liệu nhập khẩu, cũng phải chịu áp lực nhất định khi tỷ giá tăng, song nếu có nguồn thu ngoại tệ sẽ được hưởng lợi.
Hàng chục nghìn án tín dụng ngân hàng tồn đọng, thi hành án lên tiếng giải thích
Đại diện Vietcombank cho hay, vướng mắc phổ biến nhất trong quá trình xử lý tài sản đảm bảo thông qua thi hành án hiện nay là thời gian thi hành án để xử lý tài sản đảm bảo còn chậm trễ, kéo dài do sự bất hợp tác của Bên chủ tài sản trong tất cả các bước của quá trình thi hành án.
Tình trạng này diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương như Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Đăk Lăk, Cần Thơ….thời gian thi hành án thường kéo dài từ 20 tháng. Thậm chí có vụ việc thời gian thi hành đã đến 10 năm đến nay vẫn chưa xong (là trường hợp khách hàng CTCP Thương mại dược phẩm Nhật Tân tại Hà Nội).
Thực trạng này khiến quyền lợi hợp pháp của các tổ chức tín dụng (TCTD) không được bảo đảm, thời gian thi hành án kéo dài, tốn kém chi phí, giảm giá trị thu hồi nợ, làm tăng nguy cơ gây ra tổn thất cho TCTD cũng như cho xã hội.
Ngoài ra, thời gian thi hành án xử lý tài sản đảm bảo chậm còn một số cơ quan thi hành án chưa thực sự quyết liệt trong việc thi hành án dẫn đến việc thi hành án kéo dài, các quy định pháp luật còn nhiều vướng mắc, xuất hiện tình trạng chủ tài sản liên tục tạo tranh chấp giả về quyền sở hữu tài sản đảm bảo (khởi kiện ra tòa) để kéo dài thời gian xử lý tài sản đảm bảo…
Trong quá trình kê biên, xử lý tài sản, nhiều cơ quan chức năng và địa phương cũng chưa phối hợp tốt. Như vụ việc đang THA của Vietcombank tại Chí Linh do Cục Thi hành án dân sự Hải Dương thi hành, do các chủ tài sản không hợp tác xử lý, Vietcombank đề nghị Cục Thi hành án dân sự Hải Dương thực hiện cưỡng chế, kê biên theo đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, Viện KSND tỉnh Hải Dương chưa chấp thuận cho Cục Thi hành án dân sự Hải Dương thực hiện cưỡng chế kê biên để thi hành án, dẫn tới quá trình thi hành án bị chậm trễ, kéo dài.
Ông Nguyễn Thành Long, Chủ nhiệm Câu lạc bộ pháp chế ngân hàng (Hiệp hội ngân hàng) cho hay, xử lý tài sản bảo đảm thông qua thi hành án được thực hiện hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng trong công công tác thu hồi nợ xấu của các tổ chức tín dụng, son kết quả vẫn còn nhiều bất cập. Nguyên nhân chủ yếu là do quy định pháp luật thi hành án và pháp luật liên quan chưa đồng bộ, thống nhất, thiếu cụ thể, rõ ràng.
Chỉ tính riêng số vụ án tín dụng, ngân hàng đang chờ thi hành tại Cục Thi hành án dân sự và TP.HCM, con số này đã vượt trên 10.600 vụ việc, số tiền lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng. Số án tồn đọng lớn đã ảnh hưởng đến quyền chủ nợ là các tổ chức tín dụng.
Thống kê của Cục Thi hành án dân sự Tp. Hà Nội cho hay, năm 2022 (từ 01/10/2021 đến 30/9/2022) tổng thụ lý án tín dụng ngân hàng là 5.962 việc với số tiền hơn 36.000 tỷ đồng. Trong đó, số việc có điều kiện thi hành án là 3.483 việc (chiếm 58.41 %). Kết thúc năm, các cơ quan thi hành án đã thi hành xong 875 việc đạt tỷ lệ 25.12%. Rất nhiều đơn vị thi hành án trong tình trạng quá tải do số vụ về việc và về tiền rất lớn như: Ba Đình, Cầu Giấy, Chương Mỹ, Đông Anh, Đống Đa, Hà Đông, Hai
Một số TCTD có lượng án phải thi hành lớn như: Techcombank (1.153 việc, trên 4.161 tỷ đồng); Agribank (316 việc, trên 4.918 tỷ đồng); Vietinbank (220 việc, trên 1.786 tỷ đồng); BIDV (168 việc, trên 2.937 tỷ đồng); Vietcombank (115 việc, trên 3.847 tỷ đồng); VP Bank (794 việc, trên 2.004 tỷ đồng) …
Lãnh đạo nhiều ngân hàng và VAMC đều mong mỏi, Tổng cục Thi hành án dân sự thường xuyên phối hợp với các TCTD tổ chức các đoàn công tác để làm việc với các cơ quan thi hành án nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong việc xử lý tài sản. Đồng thời, đề xuất Chính phủ và Quốc hội gỡ khó các vướng mắc về quy định pháp luật.
Lý do khiến số án tín dụng ngân hàng thi hành chậm, theo ông Thái là do lượng án không ngừng tăng nhanh trong khi kinh tế trong nước khó khăn, việc bán tài sản thi hành án không dễ. Chưa kể, nhiều người thi hành án thiếu hợp tác, trốn tránh.
Ngoài ra, tài sản đảm bảo thi hành án đa số là bất động sản, khả năng thanh khoản kém, có nhiều trường hợp tài sản đảm bảo thi hành án không đủ điều kiện pháp lý, bị sai lệch dẫn đến khi xử lý phải xác minh, họp bàn, trao đổi mất nhiều thời gian, kéo dài việc tổ chức thi hành án.
Đơn cử, vụ Công ty Tín Phát (khách hàng của BIDV), khi khi chấp hành viên kiểm tra hiện trạng tài sản thì không xác định được vị trí tài sản (thửa đất nằm trong cùng thửa đất với chủ sở hữu trước). Ngân hàng cũng không cung cấp được thông tin, không xác định được vị trí do tại thời điểm vay Ngân hàng không kiểm tra hiện trạng thực tế tài sản, giá trị cho vay cao rất nhiều so với thực tế.
Hay như trường hợp Vụ Công ty CP Đầu tư Xây dựng và Thương Mại AVI Việt Nam (khách hàng của SCB) lại càng trớ trêu hơn: Cục Thi hành án dân sự đã xử lý tài sản đảm bảo, giao cho người mua được tài sản bán đấu giá vào ngày 18/10/2022. Tuy nhiên, sau đó Chấp hành viên đã phân phối tiền thi hành án và nhiều lần gửi thông báo cho Ngân hàng SCB đề nghị cung cấp thông tin số tài khoản để Cục chuyển trả số tiền cho SCB, tuy nhiên đến nay SCB vẫn chưa cung cấp.
Với trường hợp Nguyễn Chí Mạnh (khách hàng của Ngân hàng Techcombank), Chi cục THADS huyện Chương Mỹ thi hành tiến hành bán đấu giá tài sản bảo đảm thi hành án 10 lần không thành. Ngày 26/7/2017 Ngân hàng có đơn đề nghị nhận lại tài sản, Chi cục nhiều lần thông báo đề nghị Ngân hàng thanh toán các chi phí thi hành án theo quy định để nhận tài sản, tuy nhiên đến nay Ngân hàng vẫn chưa chuyển trả.
Hiện nay, tài sản đảm bảo thi hành án phần lớn được xử lý thông qua hình thức bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên kết quả thống kê đối với việc bán đấu giá tài sản cho thấy việc giao tài sản đã bán đấu giá thành cho người mua, giao tài sản sau hai lần giảm giá, bán đấu giá không có người tham gia trả giá, đấu giá cho người được thi hành án nhận để trừ vào tiền được thi hành án đang gặp nhiều khó khăn, nhiều vụ chậm giao trong thời gian dài.
Hiện số việc chưa giao được tài sản là 153 việc, tương ứng 425.748.770 nghìn đồng) trong đó các nguyên nhân phổ biến và điển hình là người phải thi hành án chống đối; Chưa có sự đồng thuận, nhất trí giữa các ngành liên quan hoặc chưa được sự ủng hộ của chính quyền địa phương, hoặc của cơ quan liên ngành địa phương dẫn đến việc tổ chức cưỡng chế bị gián đoạn, chưa thực hiện được, vụ việc bị tồn đọng, kéo dài.
Bên cạnh đó, người phải thi hành án, người có tài sản bị kê biên, xử lý lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo liên tục gửi đơn thư đi nhiều nơi, nhiều cấp nhằm tạo sức ép, kéo dài, cản trở việc thi hành án dân sự trong khi giữa các cơ quan liên quan không có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả dẫn đến có trường hợp cơ quan có thẩm quyền trả lời đơn thư với nội dung công văn trả lời không rõ ràng gây hiểu không đúng, phát sinh khó khăn, vướng mắc trong việc tổ chức cưỡng chế thi hành án.
Nguồn: baodautu.vn