Sự khác biệt giữa vị thế giá lên (long position) và vị thế giá xuống (short position)
Nếu một nhà đầu tư mở vị thế giá lên (long position) có nghĩa là nhà đầu tư đã mua và sở hữu những cổ phiếu đó, anh ta hy vọng sẽ kiếm lời khi giá tăng. Ngược lại, nếu nhà đầu tư mở vị thế giá xuống (short position), có nghĩa là nhà đầu tư nợ người nào đó số cổ phiếu, nhưng chưa thực sự sở hữu chúng. Ví dụ, một nhà đầu tư sở hữu 100 cổ phiếu của Tesla (TSLA) trong danh mục đầu tư của mình thì anh ta mở thế giá lên cho 100 cổ phiếu. Nhà đầu tư này đã thanh toán để nắm quyền sở hữu số cổ phiếu.
Một nhà đầu tư bán 100 cổ phiếu của TSLA nhưng không sở hữu chúng thì anh ta là người mở vị thế giá xuống cho 100 cổ phiếu. Nhà đầu tư vị thế giá xuống nợ 100 cổ phiếu và phải hoàn thành nghĩa vụ thanh toán bằng cách mua cổ phiếu trên thị trường để đáp ứng. Thông thường, nhà đầu tư thế giá xuống vay cổ phiếu từ một công ty môi giới thông qua tài khoản ký quỹ. Sau đó, với hy vọng giá cổ phiếu sẽ giảm, nhà đầu tư mua cổ phiếu với mức giá thấp hơn để trả lại cho phía môi giới. Nếu giá không giảm mà tiếp tục tăng, đến một mức thua lỗ nhất định, người môi giới có thể sẽ đóng lệnh của người giao dịch bán khống (margin call).
Hợp đồng quyền chọn
Khi một nhà đầu tư sử dụng các hợp đồng quyền chọn trong một tài khoản, các vị thế giá lên và giá xuống có ý nghĩa hơi khác nhau. Mua hoặc giữ một quyền chọn mua hay bán (call or put option) là vị thế giá lên vì nhà đầu tư sở hữu quyền mua hoặc bán chứng khoán tại một mức giá cụ thể. Bán một quyền chọn mua hay bán thì ngược lại và là vị thế giá xuống vì nhà giao dịch này có nghĩa vụ bán hoặc mua cổ phiếu từ chủ sở hữu vị thế giá lên hoặc người mua quyền chọn.
Ví dụ, một người mua (vị thế giá lên) một quyền chọn mua cổ phiếu Tesla (TSLA) giá $ 28,70 (người bán đã bán khống quyền chọn mua). Giá niêm yết của quyền chọn là 275 đô la và TSLA hiện giao dịch với giá 303,70 đô la trên thị trường. Người bán lấy khoản phí 28,70 đô la, theo đó có nghĩa vụ bán TSLA tại mức giá 275 đô la nếu người mua quyết định thực hiện hợp đồng bất kỳ lúc nào trước ngày đáo hạn. Người mua quyền chọn có quyền mua cổ phiếu ở mức giá 275 đô la khi đáo hạn từ người bán nếu giá trị thị trường của TSLA lớn hơn 275 đô la + 28,70 đô la = 303,70 đô la.
Chiến lược bán (put) và mua (call) quyền chọn
Các nhà đầu tư sử dụng vị thế giá lên và xuống để đạt những kết quả khác nhau, và đôi khi cả vị thế giá lên và xuống đồng thời được một nhà đầu tư thiết lập để tạo đòn bẩy hoặc tạo ra thu nhập cho chứng khoán. Một vị thế giá lên của cổ phiếu đơn giản có chiều hướng tăng giá và dự đoán tăng trưởng, ngược lại một vị thế giá xuống có chiều hướng giảm giá. Quyền chọn mua vị thế giá lên (long call option) có chiều hướng tăng giá, khi nhà đầu tư kỳ vọng giá cổ phiếu tăng và mua quyền chọn mua với mức giá thấp hơn. Một nhà đầu tư có thể phòng hộ (hedge) vị thế giá lên của mình bằng cách mở một vị thế giá xuống, từ đó cho anh ta quyền bán cổ phiếu của mình tại mức giá đảm bảo. Bán khống quyền chọn mua cung cấp một chiến lược tương tự để bán khống mà không cần phải vay cổ phiếu. Vị thế này cho phép nhà đầu tư lấy phí quyền chọn làm thu nhập với khả năng cung cấp vị thế giá lên của mình với mức giá đảm bảo, thường cao hơn. Ngược lại, một vị thế giá xuống cho phép nhà đầu tư khả năng mua cổ phiếu ở một mức giá cụ thể và anh ta thu phí trong khi chờ đợi.
Đây chỉ là một vài ví dụ về cách kết hợp các vị thế giá lên và giá xuống với các chứng khoán khác nhau có thể tạo đòn bẩy và phòng hộ thua lỗ trong danh mục đầu tư. Điều quan trọng cần nhớ là các vị thế giá xuống có rủi ro cao hơn và do tính chất của các vị thế nhất định, có thể bị giới hạn trong IRAs và các tài khoản tiền mặt khác. Tài khoản ký quỹ nói chung cần thiết cho hầu hết các vị thế giá xuống, và công ty môi giới của bạn cần phải đồng ý rằng các vị thế rủi ro hơn phù hợp với bạn.
Nguồn: Investopedia, Happy Live dịch