fbpx

Tại sao ĐẦU TƯ GIÁ TRỊ lại khó đến vậy?

Như những người khác đã chỉ ra, đầu tư giá trị rất khó gắn bó (ví dụ: xem bài báo WSJ của Jason Zweig ). Các biểu đồ dưới đây cung cấp một cái nhìn ấn tượng về lý do tại sao điều này là đúng.

Trong phân tích này, chiến lược giá trị chỉ đơn giản là mua các công ty được định giá rẻ nhất so với EBIT của năm trước (thu nhập trước lãi vay và thuế). Biểu đồ trên cùng vẽ biểu đồ hiệu suất mô phỏng của phương pháp đầu tư giá trị đơn giản này trong bối cảnh tổng lợi nhuận của S&P 500. Biểu đồ dưới cùng cho thấy chiến lược giá trị đã tụt lại phía sau S&P 500 bao nhiêu và trong bao lâu tại mỗi thời điểm.  

Trong mô phỏng cụ thể này, trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 1973 đến tháng 6 năm 2014, phương pháp tiếp cận giá trị đã đạt được lợi nhuận gộp hàng năm là 17,2% trong khi tổng lợi nhuận của SP500 (thay đổi giá cộng với cổ tức) là 10,3%. Nghe có vẻ tuyệt vời! Đúng? 

Tuy nhiên, như biểu đồ dưới cùng cho thấy, một nhà đầu tư sử dụng chiến lược giá trị này sẽ phải trải qua 14 năm (1988 đến 2001), nơi anh ta sẽ không nhận được nhiều phản hồi rằng anh ta đang đi đúng hướng. Ngay sau khi phục hồi sau khi tụt hậu 30% so với thị trường từ năm 1988-1991, ông sẽ tụt lại gần 50% trong suốt 6 năm mệt mỏi.  

Có bao nhiêu nhà đầu tư có đủ niềm tin và sự kiên nhẫn để tiếp tục hành trình?  

Vậy những điều cần lưu ý là gì:

value_invest_vs_market.png

1) Ngay cả với một cách tiếp cận đúng đắn đối với đầu tư cổ phiếu, bạn cũng nên mong đợi những khoảng thời gian kéo dài nhiều năm, nơi những điều điên rồ xảy ra.

2) Để thành công trong dài hạn, bạn nên mong đợi và có đủ niềm tin để chịu đựng những giai đoạn này.

3) Phần thưởng có thể rất lớn đối với những nhà đầu tư có niềm tin như vậy.  

Những kết quả này cho thấy rằng trong hơn 40 năm qua, việc mua cổ phần ở các công ty rẻ tiền đã mang lại cho nhà đầu tư cơ hội tạo ra khối tài sản gấp 10 lần số tiền mà anh ta có thể nhận ra khi đầu tư vào S&P 500.

Trong mô phỏng, cơ sở dữ liệu COMPUSTAT của Standard & Poor được sử dụng làm nguồn cung cấp tất cả thông tin về các công ty và chứng khoán trong toàn bộ khoảng thời gian mô phỏng. Lợi nhuận của S&P 500 là tổng lợi nhuận của S&P 500, đề cập đến Chỉ số Standard & Poor’s 500 với cổ tức được tái đầu tư. Lợi tức mô phỏng cũng bao gồm việc tái đầu tư của tất cả thu nhập. Trong mô phỏng, các công ty NYSE, AMEX và NASDAQ được xếp hạng theo Lợi tức thu nhập. Thu nhập Lợi nhuận được định nghĩa là EBIT chia cho Tổng Giá trị Doanh nghiệp. Các công ty không có trụ sở tại Hoa Kỳ, các công ty trong lĩnh vực tài chính và các công ty có giá trị vốn hóa thị trường, khi được Giá chỉ số S & P500 điều chỉnh đến tháng 1 năm 2010, dưới 1 tỷ đô la đã bị loại khỏi bảng xếp hạng.

Kết quả mô phỏng phản ánh tài sản đang được quản lý (AUM) vào đầu mỗi tháng, khi được Điều chỉnh bởi Giá chỉ số S & P500 đến tháng 1 năm 2010, bằng 100 triệu đô la. Các danh mục đầu tư được xây dựng bằng cách đầu tư số vốn bằng nhau vào nhóm các công ty hàng đầu được đại diện bởi Lợi nhuận thu nhập và sau đó tái cân bằng hàng tháng để cân bằng các thành phần đang phát triển của nhóm hàng đầu. Số lượng cổ phiếu của một chứng khoán được mua hoặc bán trong một tháng được giới hạn không quá 10% khối lượng hàng tháng của một chứng khoán. Trong khoảng thời gian từ năm 1983 đến nay, giá mua và bán của một chứng khoán được dựa trên giá đóng cửa hàng ngày của chứng khoán được tính theo khối lượng trong mười ngày giao dịch đầu tiên của mỗi tháng. Trước năm 1983, khi giá hàng ngày không có sẵn cho tất cả các chứng khoán,

Chi phí giao dịch được tính là 0,02 đô la trên mỗi cổ phiếu cộng với một yếu tố trượt giá bổ sung sẽ tăng theo bình phương khối lượng mô phỏng tham gia vào một chứng khoán. Cụ thể, nếu tham gia tối đa 10% khối lượng hàng tháng, mô phỏng mua cao hơn 1% so với giá thị trường trung bình hoặc ngược lại, bán với giá thấp hơn 1% so với giá thị trường trung bình. Ngoài các chi phí giao dịch này, kết quả mô phỏng không phản ánh việc khấu trừ bất kỳ khoản phí hoặc chi phí quản lý nào. Kết quả mô phỏng lịch sử được trình bày ở đây chỉ dành cho mục đích minh họa và không dựa trên kết quả hoạt động thực tế. Các kết quả mô phỏng trong quá khứ không phải là dấu hiệu cho thấy hiệu suất trong tương lai.

Hà An dịch

Nguồn: Bởi: John Alberg và Michael Seckler – euclidean

Có thể bạn quan tâm: Bộ sách Đầu tư giá trị từ A đến Z

bo-sach-dau-tu-gia-tri-tu-den-z

ĐẶT SÁCH

Các viết cùng chủ đề