Thống đốc: Ưu tiên mục tiêu giữ ổn định tỷ giá
Ngân hàng Nhà nước phải chủ động cho phép tỷ giá biến động linh hoạt hơn. Bởi nếu ổn định lãi suất thì không thể kiểm soát được thị trường ngoại hối.
Lãi suất, tỷ giá tăng mạnh, room tín dụng hạn hẹp khó tiếp cận vốn vay, gói hỗ trợ lãi suất 2% chậm giải ngân… là một trong các vấn đề được các đại biểu Quốc hội đặc biệt quan tâm trong phiên thảo luận về kinh tế xã hội diễn ra ngày 27-28/10.
Phát biểu tại phiên thảo luận chiều 28/10, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, về vấn đề lãi suất và tỷ giá, không chỉ Việt Nam mà toàn thế giới đều đang rất quan tâm. Các ngân hàng trung ương đều phải đau đầu ứng phó.
ÁP LỰC ĐẾN TỪ NGOÀI NƯỚC VÀ TRONG NƯỚC
Năm 2022, kinh tế thế giới biến động rất lớn. Cuối năm 2022, nhiều quốc gia đánh giá lạm phát chỉ là yếu tố tạm thời nhưng hiện nay, lạm phát đã trở thành xu hướng. Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) và các nước đều tăng lãi suất mạnh hơn dự kiến.
Fed tăng lãi suất khiến đồng USD tăng mạnh. Đồng nghĩa, hầu hết các đồng tiền nội tệ khác trên thế giới mất giá rất mạnh trong tương quan với đồng USD. Trong đó, nhiều đồng tiền đã mất giá 10-30%. Đặc biệt, dự trữ ngoại hối của các nước đều suy giảm mạnh. Đến nay, dự trữ của các nước đã suy giảm đến 1.000 tỷ USD.
Cùng với bối cảnh thế giới biến động phức tạp, chính sách tiền tệ trong nước lại gặp thêm nhiều áp lực từ diễn biến của thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp.
Trong khi đó, chính sách tiền tệ lại được giao nhiều nhiệm vụ, đa mục tiêu. Ngay cả trong bối cảnh lãi suất toàn cầu tăng, Ngân hàng Nhà nước vẫn được giao nhiệm vụ cố gắng giảm 0,5-1% lãi suất trong năm 2022-2023.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định, 9 tháng đầu năm, chính sách tiền tệ đã bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, điều hành linh hoạt, dùng các công cụ và liều lượng hợp lý vào từng thời điểm, qua đó góp phần kiểm soát lạm phát bình quân 9 tháng 2,73%, lạm phát cả năm 2022 nhiều khả năng dưới 4%, thấp hơn nhiều quốc gia khác.
Bên cạnh đó, tăng trưởng tín dụng 10 tháng tăng trên 11% và tăng 16-17% so với cùng kỳ, đây là mức rất cao và là yếu tố góp phần giúp cho tăng trưởng kinh tế năm nay dự kiến đạt 8%. Đồng thời, tỷ giá, lãi suất 9 tháng đầu năm cũng cơ bản ổn định, thanh khoản được điều tiết tốt.
Đặc biệt trên thị trường tiền tệ, thanh khoản ngân hàng thậm chí có dư thừa trong 9 tháng đầu năm 2022. Mặt bằng lãi suất dù không giảm được nhưng cũng chỉ tăng 0,3-0,4% so với cuối năm ngoái.
CHẤP NHẬN LÃI SUẤT BIẾN ĐỘNG ĐỂ ỔN ĐỊNH TỶ GIÁ
Tuy nhiên, bà Hồng cũng thừa nhận, bắt đầu từ tháng 10/2022, thị trường tiền tệ và ngoại hối trong nước biến động mạnh, chủ yếu do tâm lý kỳ vọng, do các thông tin không đúng sự thật… đã tác động mạnh tới hoạt động của tổ chức tín dụng cũng như diễn biến của thị trường ngoại tệ.
Trước tình hình đó, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành phối hợp với Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo thanh khoản, đáp ứng khả năng chi trả cho các tổ chức tín dụng.
Đối với thị trường ngoại hối, bà Hồng cho biết, Ngân hàng Nhà nước phải chủ động cho phép tỷ giá biến động linh hoạt hơn. Bởi nếu ổn định lãi suất thì không thể kiểm soát được thị trường ngoại hối . Trong khi đó, ổn định thị trường ngoại hối có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giữ niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài.
“Quan trọng trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ là phải xác định được mục tiêu trọng tâm của giai đoạn đó là gì nhưng trên tinh thần xuyên suốt là phải kiểm soát được lạm phát, đảm bảo ổn định vĩ mô. Còn trong ngắn hạn sẽ phải đánh đổi các mục tiêu. Ví dụ để ổn định tỷ giá thì chấp nhận lãi suất phải tăng, lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng đến sản xuất, đến doanh nghiệp, đến tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, sau khi ổn định chúng ta sẽ tăng tốc sau”, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhấn mạnh.
Đồng thời, theo Thống đốc, rất may trong thời gian trước đây, Ngân hàng Nhà nước không nới room tín dụng. Bởi lúc đó mà điều chỉnh tăng room tín dụng thì sự kiện tháng 10 vừa qua sẽ rất khó khăn để giải quyết và ảnh hưởng tới khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng cũng như thị trường ngoại hối.
CUNG ỨNG ĐỦ NGOẠI TỆ CHO CÁC DOANH NGHIỆP XĂNG DẦU
Liên quan tới khó khăn của doanh nghiệp xăng dầu, Thống đốc đề nghị Bộ Công thương có đánh giá cụ thể, chi tiết, phân tích nguyên nhân để đưa ra giải pháp phù hợp. Thống đốc cho rằng nguyên nhân khó khăn của doanh nghiệp xăng dầu không phải do thiếu tín dụng, ngoại tệ.
Theo tổng hợp nhanh của Ngân hàng Nhà nước, tổng hạn mức tín dụng mà các ngân hàng thương mại cấp cho doanh nghiệp xăng dầu là 103.000 tỷ đồng nhưng hiện nay mới sử dụng hết 58.000 tỷ đồng.
“Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng đảm bảo cung ứng ngoại tệ đầy đủ cho doanh nghiệp xăng dầu nhập khẩu. Từ đầu năm đến nay, ngành ngân hàng đã bán ra 10 tỷ USD cho các doanh nghiệp xăng dầu (Nghi Sơn, Bình Sơn… )”, Thống đốc nói.
Với gói hỗ trợ lãi suất 2% giải ngân chậm như nhiều đại biểu quốc hội nêu, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết đã tiến hành nhiều cuộc khảo sát liên ngành, đi thực tế các địa phương. Có địa phương khảo sát 183 khách hàng đủ điều kiện hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất thì 126 khách hàng ko quan tâm, 46 khách hàng chưa có phản hồi. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ khảo sát thêm các địa phương, doanh nghiệp và sẽ có văn bản báo cáo Chính phủ.
Hà An