Xuất khẩu thủy sản đã có tín hiệu tích cực
Xuất khẩu thủy sản tháng 5/2023 đạt trên 808 triệu USD, cao nhất từ đầu năm tới nay, cho thấy tín hiệu thị trường đang le lói ánh sáng. Tuy nhiên, nếu tính chung 5 tháng đầu năm 2023, kim ngạch, xuất khẩu thủy sản chỉ đạt 3,4 tỷ USD, giảm 28% so với cùng kỳ năm trước.. chỉ đạt 3,4 tỷ USD…
Theo số liệu báo cáo vừa được Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) phát hành, xuất khẩu thủy sản 5 tháng đầu năm 2023 thấp hơn 29% so với cùng kỳ năm 2022.
Tuy nhiên, nếu tính riêng trong tháng 5/2023, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt trên 808 triệu USD, cao nhất từ đầu năm tới nay. Đáng chú ý, các mặt hàng chủ lực đã hạ dần mức độ sụt giảm so với cùng kỳ. Xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đều đạt doanh số cao nhất từ đầu năm tới nay.
Nếu xét trên con số tổng quát, xuất khẩu các mặt hàng thủy sản chính trong 5 tháng đầu năm 2023 đều giảm từ 10-40% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, cá tra giảm sâu nhất 40%, khi chỉ đạt kim ngạch 730 triệu USD; tôm giảm 34%; cá ngừ giảm 31%; mực bạch tuộc giảm 12%. Tuy nhiên, có một số loại cá biển ghi nhận tăng trưởng dương như cá cơm tăng 53%; cá nục tăng 14%; cá chỉ vàng tăng 20%…
Theo VASEP, có 3 nguyên nhân lớn nhất khiến cho xuất khẩu thủy sản của Việt Nam bị từ đầu năm tới nay giảm 30% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thứ nhất, lạm phát và lượng tồn kho tăng khiến nhu cầu tiêu thụ và NK tại các thị trường giảm
Thứ hai, cạnh tranh căng thẳng với các nước sản xuất khác về nguồn cung và giá, điển hình là Ecuador, Ấn Độ…
Thứ ba, sức khỏe và sức chịu đựng của bà con nông ngư dân và doanh nghiệp thủy sản suy yếu vì chi phí sản xuất tăng, giá bán giảm, tiêu thụ chậm, tồn kho tăng, cạn kiệt vốn và khó tiếp cận vay vốn để duy trì sản xuất – xuất khẩu…
Những biến động về cung – cầu xuất phát từ căn nguyên là chiến tranh và lạm phát, đến nay chưa có tín hiệu khả quan, nên việc dự báo về thị trường cũng thiếu cơ sở và độ chắc chắn.
Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều doanh nghiệp thủy sản, từ nay tới cuối năm, thị trường tiêu thụ thủy sản khó có thể phục hồi, hoặc nếu có thì sẽ phục hồi chậm.
Cụ thể hơn, VASEP cho biết ở một số thị trường lớn như Mỹ, EU, ngoài việc trông đợi tình hình kinh tế và lạm phát có chiều hướng tích cực hơn, thì vấn đề lớn là phải giải quyết được lượng tồn kho. Năm 2022 những thị trường này đã nhập khẩu ồ ạt, chưa kịp tiêu thụ đã gặp ngay cú sốc lạm phát, nên hàng tồn nhiều, giá bán hạ.
Bên cạnh đó, cơn lốc hàng giá rẻ của các nước khác như Ecuador và Ấn Độ gần như lấn át sản phẩm của Việt Nam tại những quốc gia này, nhất là mặt hàng tôm – sản phẩm chủ lực của chúng ta. Do vậy, tín hiệu thị trường không mấy khả quan trong ngắn hạn.
Thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc cũng bị sụt giảm nhu cầu vì lạm phát, nhưng không giảm sâu như hai thị trường trên. Nhiều doanh nghiệp vẫn nhìn thấy ở 2 thị trường này điểm sáng lạc quan, đó là vị trí thủ lĩnh của hàng giá trị gia tăng Việt Nam không bị cạnh tranh bởi các nước khác. Vì thế, chỉ cần lạm phát dần ổn định, xuất khẩu sang 2 thị trường này sẽ hồi phục nhanh hơn, bù đắp cho những thị trường còn lại.
Với Trung Quốc, sau khi nước này mở cửa lại sau Covid, sự hồi phục của thị trường này vẫn ì ạch, thậm chí xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang đây bị sụt giảm gần 30%.
“Thực tế không như dự đoán, vì sau 3 năm kiểm soát chặt giao thương chống Covid, nền kinh tế Trung Quốc rõ ràng bị ảnh hưởng khá nặng nề, thu nhập của người dân giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng. Do đó, nhu cầu tiêu thụ thực tế trong nước chưa thể phục hồi trong ngắn hạn, đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc cần tập trung cho việc khôi phục sản xuất và ngành chế biến xuất khẩu thủy sản của họ”, VASEP đánh giá.
Tuy nhiên, nửa cuối năm, có thể diễn biến của thị trường này sẽ khả quan hơn so với đầu năm, khi người dân Trung Quốc thích nghi hơn với bối cảnh mới, lĩnh vực du lịch, nhà hàng, khách sạn và tiêu dùng cơ bản sẽ hồi phục dần dần.
Nhận diện được những khó khăn, thách thức hiện nay, các doanh nghiệp thủy sản đều xác định đây là khoảng thời gian xem xét, rà soát lại chi phí sản xuất, giữ ổn định số lượng lao động và thu nhập cho người lao động, không mở rộng đầu tư. Đây cũng là giai đoạn doanh nghiệp giành thời gian nghiên cứu các sản phẩm mới cho phù hợp với bối cảnh thị trường hậu Covid và lạm phát cao.
Theo VASEP, nỗi lo lớn nhất của doanh nghiệp thủy sản hiện nay là chi phí đầu vào cao, giá bán thấp, nông dân và doanh nghiệp nuôi bỏ ao, sẽ dẫn đến hệ lụy là khi thị trường hồi phục thì không còn nguyên liệu để chế biến nhập khẩu, và lại một lần nữa thủy sản Việt lại mất vị thế trước các nước khác. Vì vậy, hơn bao giờ hết, toàn ngành thủy sản cần các cấp, ngành và các thành phần trong chuỗi cung ứng cùng chung tay tìm giải pháp để vượt qua giai đoạn khó khăn của năm 2023-2024 này”, báo cáo của VASEP nhấn mạnh.
Tiến Phát