Wyckoff 2.0: Lý thuyết thị trường đấu giá? Trong đầu tư chứng khoán
Lý thuyết Thị trường Đấu giá, ra đời từ các nghiên cứu của J.P. Steidlmayer về Hồ sơ thị Trường (Market Profile). Sau đó, cùng với các tác giả khác như James Dalton và Donald L. Jones, ông đã xác định một loạt các khái niệm hình thành nên lý thuyết này.
Đào sâu về lý thuyết thị trường đấu giá và các biến
Lý thuyết thị trường đấu giá nó dựa trên thực tế là thị trường, với mục tiêu ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thương lượng giữa các bên tham gia và theo các nguyên tắc của luật cung và cầu, sẽ luôn vận động để tìm kiếm sự hiệu quả, hay còn được hiểu là sự cân bằng hoặc giá trị hợp lý
Sự hiệu quả có nghĩa là người mua và người bán cảm thấy thoải mái đàm phán và không xuất hiện quyền kiểm soát rõ ràng từ một phe nào. Sự thoải mái đó đến từ việc định giá của cả hai đều tương đồng (dựa trên điều kiện thị trường hiện tại). Cách sự cân bằng này được quan sát trực quan trên biểu đồ giá là một vùng giá xoay vòng/đảo chiều liên tục (phạm vi giá). Khía cạnh này của giá thể hiện sự cân bằng. Nó là bằng chứng cho việc tạo điều kiện để các giao dịch thuận lợi và là trạng thái mà thị trường hướng tới.
Nó dựa trên thực tế là thị trường, với mục tiêu ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thương lượng giữa các bên tham gia và theo các nguyên tắc của luật cung và cầu, sẽ luôn vận động để tìm kiếm sự hiệu quả, hay còn được hiểu là sự cân bằng hoặc giá trị hợp lý.
Sự hiệu quả có nghĩa là người mua và người bán cảm thấy thoải mái đàm phán và không xuất hiện quyền kiểm soát rõ ràng từ một phe nào. Sự thoải mái đó đến từ việc định giá của cả hai đều tương đồng (dựa trên điều kiện thị trường hiện tại). Cách sự cân bằng này được quan sát trực quan trên biểu đồ giá là một vùng giá xoay vòng/đảo chiều liên tục (phạm vi giá). Khía cạnh này của giá thể hiện sự cân bằng. Nó là bằng chứng cho việc tạo điều kiện để các giao dịch thuận lợi và là trạng thái mà thị trường hướng tới.
Thị trường sẽ không ngừng chuyển động để tìm kiếm và xác nhận giá trị thật, thông qua quá trình trao đổi cổ phiếu giữa người mua và người bán. Điều này xảy ra khi có sự tương đồng về giá giữa phe mua và phe bán. Tại thời điểm đó, cuộc giao dịch sẽ tạo ra một vùng cân bằng mới. Chu kỳ này sẽ tự lặp đi lặp lại một cách liên tục.
Ý tưởng chung là thị trường sẽ di chuyển từ vùng cân bằng này sang vùng cân bằng khác thông qua các vùng chuyển động có xu hướng và những chuyển động này sẽ được bắt đầu khi xuất hiện sự mất cân bằng giữa mức định giá (của người mua và người bán) so với mức giá hiện tại của tài sản. Thị trường bây giờ sẽ bắt đầu tìm kiếm khu vực cân bằng tiếp theo, được tạo ra với sự đồng thuận của đa số người tham gia thị trường.
Cần lưu ý rằng thị trường dành phần lớn thời gian trong các giai đoạn cân bằng, điều này là hợp lý do bản chất của thị trường dựa trên sự thương lượng giữa các bên tham gia. Đây là nơi diễn
ra quá trình tích lũy và phân phối, như chúng ta đều biết đó là nơi phương pháp Wyckoff tập trung khai thác.
Các biến số
Quá trình đấu giá trên thị trường tài chính về cơ bản là dựa trên giá trị của tài sản. Để cố gắng xác định vị trí của mức giá trị này, chúng ta cần đánh giá ba yếu tố:
Giá
Trong cơ chế đấu giá, giá được sử dụng như một công cụ khám phá. Việc tạo điều kiện giao dịch được thực hiện bởi sự chuyển động của giá, dao động lên xuống sẽ giống như một sự thăm dò,
nhằm khám phá ra mức độ phản ứng khác nhau của những người tham gia thị trường.
Những biến động giá này báo trước cơ hội. Nếu những người tham gia phản hồi với biến động này bằng việc cảm thấy giá đã hợp lý, điều đó sẽ khơi gợi sự thương lượng giữa những người tham gia.
Ngược lại, nếu những khám phá về mức giá mới này không được coi là hấp dẫn đối với những người tham gia, thì những chuyển động đó sẽ bị từ chối.
Thời gian
Khi thị trường phát triển một cơ hội (giá đạt đến mức hấp dẫn), mức hấp dẫn của cơ hội sẽ quyết định khoảng thời gian mà cơ hội này tồn tại.
Giá sẽ dành rất ít thời gian ở những khu vực có lợi cho một trong hai bên (phe mua hoặc phe bán).
Một vùng hiệu quả (hay sự cân bằng) sẽ có nét đặc trưng với thời gian tồn tại cao hơn, trong khi khu vực kém hiệu quả (hoặc mất cân bằng, tồn tại cơ hội có lợi cho một trong hai phe) sẽ có đặc trưng với khoảng thời gian tồn tại ngắn hơn.
Khối lượng giao dịch
Khối lượng giao dịch đại diện cho mức độ của hành động. Số lượng giao dịch cho thấy sự quan tâm hoặc không quan tâm ở các mức giá nhất định.
Dựa trên khối lượng, có những khu vực có giá trị hơn những khu vực khác. Quy tắc cơ bản là một khu vực càng có nhiều hoạt động, thì khu vực đó càng được đánh giá cao bởi những người tham gia thị trường.
GIÁ + THỜI GIAN + KHỐI LƯỢNG = GIÁ TRỊ
Ba yếu tố này chịu trách nhiệm cung cấp cho chúng ta một quan điểm hợp lý (dựa trên các điều kiện hiện tại) về nơi mà những người tham gia thị trường đang xem xét giá trị của một tài sản cụ thể. Thông qua giá cả thị trường sẽ khám phá các mức giá mới. Thông qua thời gian tập trung mà thị trường cho biết sự chấp nhận ở khu vực mới đó. Và cuối cùng khối lượng giao dịch sẽ xác nhận.
Nguồn: Sách Wyckoff 2.0