Yuval Noah Harari: Nhân loại thiếu sự lãnh đạo trong cuộc chiến chống Covid-19
Ngày nay, loài người đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng trầm trọng không chỉ vì virus Covid-19, mà còn vì sự thiếu hụt niềm tin giữa con người với con người. Để đánh bại một dịch bệnh, con người cần tin tưởng vào các chuyên gia khoa học, người dân phải đặt niềm tin vào chính quyền, và các quốc gia phải tin tưởng lẫn nhau.
Yuval Noah Harari là nhà sử học, triết gia, tác giả của các cuốn sách nổi tiếng như Sapiens (Lược sử loài người), Homo Deus (Lược sử tương lai) và 21 Lessons for the 21st Century (21 bài học cho thế kỷ 21). Dưới đây là bài viết tiêu đề “Trong cuộc chiến chống virus corona, nhân loại thiếu sự lãnh đạo” của ông đăng trên TIME.
Nhiều người đổ lỗi dịch bệnh gây ra bởi Covid-19 là do quá trình toàn cầu hóa. Họ cho rằng cách duy nhất để ngăn chặn những dịch bệnh tương tự trong tương lai là chấm dứt quá trình đó. Hãy xây những bức tường ngăn cách biên giới, hạn chế đi lại giữa các quốc gia và cắt giảm thương mại.
Trong khi việc cách ly ngắn hạn là một cách hữu hiệu để hạn chế sự lan rộng của dịch bệnh, “cách ly” dài hạn, như nhiều người đã đề xuất, sẽ khiến cho nền kinh tế của các quốc gia sụp đổ, và trong hoàn cảnh đó, liệu họ còn có thể có khả năng thực hiện các biện pháp bảo vệ quốc gia khỏi những dịch bệnh tương tự? Sự thật phải đi theo hướng hoàn toàn ngược lại. Liều thuốc hữu hiệu nhất cho dịch bệnh lần này không phải là sự chia rẽ, mà chính là sự chung tay hợp tác giữa các quốc gia.
Các dịch bệnh đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người, trước cả khi quá trình toàn cầu hóa bùng nổ. Trong thế kỷ 14, các hình thức di chuyển còn rất sơ khai, không có máy bay, tàu thủy như hiện tại, và dịch hạch “cái chết đen” đã càn quét từ khu vực Đông Á đến Tây Âu trong khoảng thời gian chỉ hơn một thập kỷ, gây ra cái chết cho khoảng 75 – 200 triệu người, hơn 1/4 tổng dân số của lục địa Á- Âu. Tại Anh, cứ 10 người thì có đến 4 người thiệt mạng vì dịch bệnh. Thành phố Florence, Italia, thậm chí mất một nửa dân số khoảng 100.000 người.
Tháng 3/1520, người mắc bệnh đậu mùa duy nhất, quân nhân Francisco de Eguia, đã đặt chân đến Mexico. Tại thời điểm đó, vùng Trung Mỹ không hề có các loại hình vận tải như tàu hỏa, xe buýt hay lừa chở hàng. Thế nhưng, đến tháng 12 cùng năm, dịch đậu mùa đã “tàn phá” toàn bộ khu vực Trung Mỹ, cướp đi sinh mạng của 1/3 dân số khu vực này.
Năm 1918, một chủng cúm độc lực lan rộng trong khoảng thời gian vài tháng đến tận những khu vực xa xôi nhất trên Trái đất. Virus này khiến hơn 1 tỷ người nhiễm bệnh, hơn 1/4 tổng dân số toàn cầu. Dịch bệnh ước tính cướp đi sinh mạng 5% dân số Ấn Độ. Trên hòn đảo Tahiti, có đến 14% cư dân đã thiệt mạng, trong khi đó, con số này trên đảo Samoa là 20%. Tổng cộng, dịch bệnh khiến hàng chục triệu người, có thể lên đến 100 triệu người, tử vong chỉ trong chưa đầy một năm. Con số này thậm chí còn lơn hơn tổng số người thiệt mạng trong Thế Chiến I, kéo dài 4 năm.
Một thế kỷ sau năm 1918, loài người trở nên “mỏng manh” hơn bao giờ hết trước các bệnh dịch. Lý do được cho là dân số thế giới đang không ngừng tăng, và các loại hình giao thông vận tải cũng có những bước phát triển vượt bậc. Những siêu đô thị như Tokyo hay Mexico City có hàng chục triệu người dân, lớn hơn rất nhiều so với thành phố Florence thời Trung cổ.
Mạng lưới giao thông toàn cầu cũng hiện đại hơn rất nhiều so với năm 1918. Một chủng virus có thể di chuyển từ Paris đến Tokyo và Mexico City chỉ trong chưa đầy 24 giờ. Chúng ta, do đó, nên chuẩn bị tâm lý sẵn sàng sống trong một giai đoạn mà tốc độ lây nhiễm có thể sẽ rất nhanh, và các dịch bệnh sẽ nối tiếp nhau xuất hiện.
Tuy nhiên, phạm vi ảnh hưởng cũng như những tác động từ dịch bệnh trên thực tế đã giảm tương đối. Cho dù xuất hiện các bệnh dịch nguy hiểm như AIDS và Ebola, các đại dịch xảy ra trong thế kỷ 21 cướp đi sinh mạng của ít người hơn so với trong quá khứ, tính từ thời kỳ đồ đá. Thành tựu đó có được là do “vũ khí” lợi hại nhất mà loài người dùng để chống lại các dịch bệnh- thông tin. Con người giành chiến thắng trên mặt trận chống lại dịch bệnh vì trong cuộc đua giữa các tác nhân gây bệnh với bác sĩ, các tác nhân gây bệnh phụ thuộc nhiều vào những đột biến ngầm, trong khi bác sĩ dựa vào các phân tích khoa học cũng như nguồn thông tin hữu ích.
Khi dịch bệnh Cái chết đen bùng nổ vào thế kỷ 14, con người không hề biết nguyên nhân và bản thân họ phải làm gì để đối phó. Con người luôn đổ lỗi cho sự nổi giận của các đấng siêu nhiên, những loài quỷ dữ và thậm chí là không khí có độc. Họ không hề biết đến sự tồn tại của vi khuẩn và virus.
Con người đặt niềm tin vào thần linh, nhưng họ không thể tưởng tượng được rằng chỉ một giọt nước có thể mang trong đó một “hạm đội” sinh vật chết người. Do đó, khi dịch bệnh Cái chết đen hoặc đậu mùa xảy ra, điều tốt nhất mà chính quyền các quốc gia có thể làm đó là huy động lượng lớn dân chúng để cầu nguyện. Và tất nhiên là điều đó không mang lại hiệu quả. Hơn nữa, mọi người tập trung lại để cầu nguyện, dịch bệnh lại có cơ hội để lan rộng hơn.
Trong suốt thế kỷ qua, các nhà khoa học, bác sĩ, y tá trên thế giới đã thu thập thông tin và cùng tìm hiểu cơ chế bùng phát phía sau các dịch bệnh, bên cạnh đó là cách thức mà dịch bệnh có thể phát tán trên một phạm vi rộng lớn. Thuyết tiến hóa đã giải thích tại sao và bằng cách nào bệnh mới xuất hiện và bệnh cũ trở nên khó cứu chữa hơn so với trước đó.
Các nghiên cứu chuyên sâu về di truyền học cho phép giới khoa học tìm hiểu sâu hơn về cơ chế hoạt động của virus. Trong khi con người thời Trung cổ không thể nào tìm ra nguyên nhân gây ra dịch bệnh Cái chết đen, giờ đây, chỉ mất 2 tuần để các nhà khoa học tìm ra virus corona, cơ chế di truyền và sáng tạo ra một phương pháp kiểm tra để nhanh chóng phát hiện ra các trường hợp mắc bệnh.
Khi các nhà khoa học hiểu được nguyên nhân, công cuộc chống lại các dịch bệnh đó sẽ trở nên dễ dàng hơn. Các loại vắc xin, kháng sinh đã giúp nâng cao vấn đề vệ sinh dịch tễ và cơ sở vật chất ngành y tế cũng đã có những tiến bộ đáng kể, cho phép con người có thể phát hiện ra những sinh vật tưởng chừng như “vô hình”.
Năm 1967, bệnh đậu mùa vẫn khiến cho 15 triệu người mắc bệnh và 2 triệu người tử vong. Nhưng chỉ một thập kỷ sau đó, một chiến dịch sản xuất vắc xin chống đậu mùa trên quy mô toàn cầu đã được khởi xướng và đến năm 1979, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức tuyên bố nhân loại chiến thắng dịch bệnh này, và bệnh đậu mùa đã bị hoàn toàn khống chế. Trong năm 2019, không một trường hợp tử vong nào được ghi nhận do bệnh đậu mùa.
Kiểm soát biên giới trong đại dịch Covid-19
Lịch sử đã dạy ta những bài học gì để đối phó với dịch bệnh Covid-19 ở thời điểm hiện tại?
Đầu tiên, chúng ta không thể bảo vệ chính mình thông qua việc đóng cửa biên giới. Hãy nhớ rằng các dịch bệnh phát tán rất nhanh, ngay cả trong thời kỳ Trung cổ, rất lâu trước khi xu hướng toàn cầu hóa bùng nổ. Do đó, nếu như bạn giảm thiểu sự kết nối với các quốc gia trên thế giới, giống như những gì Anh đã làm vào năm 1348, điều đó vẫn là chưa đủ. Để có thể thực sự bảo vệ được bản thân, tự cô lập không phải là phương án tối ưu. Bạn phải ít nhất sống như thời kỳ đồ đá. Bạn có thể làm được điều đó không?
Thứ hai, lịch sử chứng minh cách bảo vệ tốt nhất đến từ việc chia sẻ, trao đổi các thông tin khoa học đáng tin cậy, và tinh thần đoàn kết, thống nhất toàn cầu. Khi một đất nước bị tấn công bởi dịch bệnh, họ nên trung thực chia sẻ những thông tin về dịch bệnh đó mà không cần lo sợ đến những thiệt hại kinh tế, trong khi các quốc gia khác cũng nên đặt niềm tin vào nguồn thông tin đó, sẵn sàng đưa tay giúp đỡ hơn là việc tỏ thái độ kỳ thị. Hiện tại, Trung Quốc có thể chia sẻ nhiều bài học quý báu cho các quốc gia trên thế giới về Covid-19. Điều này cần sự tin tưởng và hợp tác cao độ từ các quốc gia đó.
Sự hợp tác quốc tế là cần thiết trong quá trình thực hiện các biện pháp cách ly hiệu quả. Cách ly và đóng cửa biên giới là các bước quan trọng trong công tác ngăn chặn đà lan rộng của dịch bệnh. Nhưng khi các quốc gia không tin tưởng một quốc gia khác, và mỗi quốc gia đều đưa ra những phương hướng hành động riêng, các chính phủ sẽ lưỡng lự trong việc áp dụng các biện pháp quyết liệt.
Nếu như bạn phát hiện 100 ca nhiễm Covid-19 trên lãnh thổ, liệu bạn sẽ cho phong tỏa các thành phố? Điều đó phụ thuộc vào việc bạn kỳ vọng gì từ các quốc gia khác. Việc phong tỏa các thành phố có thể khiến nền kinh tế bị sụp đổ. Nếu như bạn nghĩ rằng các quốc gia khác sẽ giúp đỡ, bạn lại càng có lý do để thực hiện biện pháp trên hơn. Nhưng nếu nghĩ các quốc gia khác sẽ bỏ mặc, bạn sẽ phải rất cân nhắc biện pháp đó.
Có lẽ, điều quan trọng nhất con người nên nhìn nhận về dịch bệnh là sự lan rộng tại bất cứ quốc gia nào cũng sẽ gây nguy hiểm cho toàn nhân loại. Đó là vì các chủng virus không ngừng tiến hóa. Chúng, giống như trường hợp của Covid-19, tồn tại trong các các thể động vật, ví dụ như loài dơi. Khi chúng lây sang người, ngay lập tức, chúng sẽ biến đổi để thích ứng với điều kiện sống mới. Chúng sẽ vừa sinh sôi nảy nở, vừa biến đổi trong cơ thể người. Sự biến đổi của virus có thể khiến cho chúng dễ lây lan hơn và có thể chống lại hệ miễn dịch của con người, và chủng virus mới biến đổi này sau đó có thể lây lan ra một lượng lớn người dân khác. Chỉ một cá thể người có thể chứa đến hàng nghìn tỷ virus, và số lượng đó sẽ không ngừng tăng lên. Càng nhiều người mắc bệnh, virus sẽ lại có cơ hội càng cao để có thể thích ứng với đa số người. Mỗi bệnh nhân sẽ như một cỗ máy đánh bạc, còn virus sẽ nắm trong tay mình hàng nghìn tỷ vé số. Và chỉ cần một vé trúng thưởng là chúng sẽ bùng nổ mạnh mẽ.
Đây không chỉ là suy đoán thông thường. Cuốn “Crisis in the Red Zone” của Richard Prestin đã miêu tả chính xác một chuỗi các sự kiện diễn ra trong năm 2014, khi dịch Ebola bùng phát. Dịch bệnh bắt đầu khi virus Ebola lây từ dơi sang người. Chủng virus này khiến cho người mắc đổ bệnh, nhưng ban đầu chủng virus này dường như vẫn quen sống trên các cá thể dơi hơn là con người. Điều đã khiến cho Ebola từ một bệnh hiếm trở thành một đại dịch nguy hiểm chính là sự biến đổi gene trong một cá thể virus sống trong cơ thể người, khởi nguồn đâu đó tại khu vực Makona, phía tây châu Phi. Chính sự biến đổi này, đã cho phép chủng virus Ebola mới, hay còn gọi là chủng virus Makona, kết nối được với cơ chế vận chuyển cholesterol giữa các tế bào. Thay vì cholesterol, quá trình vận chuyển này lại bơm virus vào trong các tế bào. Và hệ quả là, chủng virus Makona mới này có tỷ lệ lây nhiễm cao gấp 4 lần đối với con người.
Có lẽ rằng, những biến đổi tương tự là điều đã xảy ra với virus Covid-19. Ở thời điểm hiện tại, chủng virus đã gây bệnh cho nhiều người dân tại Tehran, Milan hay Vũ Hán. Nếu điều này thực sự đang xảy ra, đó là mối nguy không chỉ đối với người dân 3 quốc gia Iran, Italia hay Trung Quốc, mà còn là lời đe dọa đến bất kỳ ai trên thế giới. Người dân trên toàn thế giới phải cùng chung tay không cho phép virus Covid-19 làm được điều đó. Có nghĩa rằng chúng ta phải bảo vệ tất cả người dân dù họ sống tại quốc gia nào.
Vào những năm 1970, loài người đã đánh bại virus gây bệnh đậu mùa trên quy mô toàn thế giới. Nếu như chỉ một quốc gia không thể đáp ứng đủ lượng vắc xin cho người dân, điều đó có thể là mối nguy hại đến toàn bộ loài người, vì một khi virus đậu mùa còn tồn tại và tiến hóa, dịch bệnh này có thể một lần nữa bùng phát tại bất cứ nơi đâu.
Trong cuộc chiến chống virus, chúng ta cần nghiêm ngặt kiểm soát biên giới. Nói cách khác, chúng ta cần phải đảm bảo ranh giới giữa loài người và virus không bị phá vỡ. Trái đất là “nhà” của vô số virus, và các chủng virus mới cũng không ngừng biến đổi. Biên giới ngăn cách giữa thế giới virus với thế giới loài người nằm trong mỗi chúng ta. Nếu như một virus nguy hiểm phá vỡ được ranh giới đó, tại bất cứ nơi đâu trên thế giới, nó chính là lời đe dọa đến toàn bộ cư dân thế giới.
Trong vòng một thế kỷ qua, loài người đã không ngừng củng cố ranh giới đó. Các hệ thống y tế hiện đại đã được xây dựng như bức tường vững chãi ngăn cách hai thế giới, và y tá, bác sĩ và nhà khoa học đóng vai trò là lực lượng biên phòng. Tuy nhiên, vẫn còn có những lỗ hổng chúng ta chưa thể kiểm soát được. Có hàng trăm triệu người trên thế giới thiếu đi những dịch vụ chăm sóc sức khỏe cần thiết. Điều này có thể gây hại cho tất cả chúng ta. Việc chăm sóc sức khỏe tốt cho người dân Iran và Trung Quốc, có thể gián tiếp bảo vệ sức khỏe cho người dân Mỹ và Isarel. Sự thật đơn giản này nên được tất cả mọi người hiểu. Nhưng không may thay, đó lại không nằm trong tầm nhận thức của một vài người có tầm ảnh hưởng nhất trên thế giới.
Một thế giới không lãnh đạo
Ngày nay, loài người đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng trầm trọng không chỉ vì virus Covid-19, mà còn vì sự thiếu hụt niềm tin giữa con người với con người. Để đánh bại một dịch bệnh, con người cần tin tưởng vào các chuyên gia khoa học, người dân phải đặt niềm tin vào chính quyền, và các quốc gia phải tin tưởng lẫn nhau. Trong vòng vài năm qua, những chính trị gia vô trách nhiệm đã đánh giá thấp các thành tựu khoa học, sự điều hành của các quốc gia cũng như sự hợp tác quốc tế. Và kết quả là chúng ta đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng này tồi tệ này.
Trong dịch bệnh Ebola xảy ra vào năm 2014, Mỹ chính là quốc gia tham gia rất tích cực vào công tác phòng chống dịch. Chính phủ Mỹ đã thực hiện vai trò giống như những gì họ đã làm trong cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra vào năm 2008 khi quốc gia này tập hợp các quốc gia cùng thực hiện các chính sách nhằm ngăn chặn đà đi xuống của nền kinh tế toàn cầu.
Nhưng trong một vài năm trở lại đây, Mỹ không thể hiện được vai trò lãnh đạo thế giới như trước kia nữa. Chính quyền Mỹ đã cắt giảm viện trợ cho các tổ chức quốc tế như WHO, và tuyên bố với toàn thế giới rằng Mỹ không còn coi một quốc gia nào khác là bạn, họ chỉ quan tâm đến lợi ích mà thôi. Khi Covid-19 bùng nổ, Mỹ đã đứng sang một bên và thoái thác vai trò lãnh đạo. Ngay cả khi quốc gia này nỗ lực nhằm tìm kiếm lại vai trò lãnh đạo, niềm tin vào họ cũng chẳng còn nhiều, và rất ít quốc gia đi theo lời kêu gọi của Mỹ. Liệu bạn có muốn phục vụ một lãnh đạo với quan điểm “bản thân tôi phải được đặt lên hàng đầu?”.
Khoảng trống bỏ lại bởi Mỹ vẫn chưa thể được lấp đầy. Tư tưởng bài ngoại, xa lánh và không tin tưởng lẫn nhau lại là những yếu tố “lên ngôi”. Sự thiếu tin tưởng cũng như thiếu thống nhất giữa các quốc gia trên thế giới sẽ không thể ngăn chặn được đại dịch, và chúng ta chắc chắn sẽ phải đối mặt với nhiều dịch bệnh hơn trong tương lai. Nhưng luôn xuất hiện những cơ hội cho dù tình hình đang rất khó khăn. Hy vọng rằng dịch bệnh lần này sẽ khiến cho loài người hiểu được mối nguy thực sự gây ra bởi thực trạng chia rẽ toàn cầu.
Để lấy ví dụ, dịch bệnh lần này có thể là cơ hội vàng cho Liên minh châu Âu lấy lại sự ủng hộ từ nhiều quốc gia khác, điều vốn đã giảm sút trong thời gian qua. Nếu như các thành viên giàu có hơn trong liên mình nhanh chóng hỗ trợ tài chính, thiết bị và nhân lực y tế cho các thành viên bị ảnh hưởng nặng nề nhất, điều đó sẽ minh chứng cho tinh thần châu Âu mạnh mẽ hơn bất cứ bài phát biểu suông nào. Nói cách khác, nếu như các quốc gia bị bỏ mặc tự đối phó với dịch bệnh, Covid-19 có thể coi là dấu chấm hết cho mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực này.
Ở thời điểm hiện tại, khó khăn lại đang nằm ở chính con người. Nếu như dịch bệnh khiến cho các quốc gia chia rẽ hơn, con người ít tin tưởng nhau hơn, đó chính là chiến thắng vang dội của virus. Khi con người còn mải tranh cãi với nhau, số lượng virus đã tăng lên gấp nhiều lần. Ngược lại, nếu như virus khiến cho các quốc gia xích lại gần với nhau hơn, đó không chỉ đơn thuần là việc chúng ta đã dành được chiến thắng trước Covid-19 mà còn là chiến thắng trước mọi dịch bệnh có thể sẽ bùng phát trong tương lai.
Nguồn: Theo Time/ NDH