fbpx

Thống đốc: Vẫn phải duy trì room tín dụng để đảm bảo an toàn hệ thống, ổn định lạm phát

Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, NHNN đã bỏ giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với nhóm chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phù hợp với đặc thù, quy mô tín dụng của nhóm này. Tuy nhiên, chưa thể bỏ biện pháp room tín dụng với các TCTD khác nhằm đảm bảo an toàn hệ thống, ổn định lạm phát.

thong-doc-van-phai-duy-tri-room-tin-dung-de-dam-bao-an-toan-he-thong-on-dinh-lam-phat-happy-live-1
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV. (Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội).

Đã bỏ room tín dụng với chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có báo cáo trình Quốc hội, trong đó có nội dung về nhiệm vụ “Nghiên cứu hạn chế và tiến tới xóa bỏ việc điều hành phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng tổ chức tín dụng (TCTD)”. Đây là một trong những nhiệm vụ mà Quốc hội đã giao cho NHNN. 

Theo Thống đốc, từ năm 2023 trở về trước, NHNN giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng TCTD, trong đó nhóm chi nhánh ngân hàng nước ngoài được tăng trưởng tín dụng theo kiểm soát tín dụng (room tín dụng) tại thời điểm cuối năm và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài với quy mô nhỏ được tăng trưởng theo kế hoạch tự xây dựng để phù hợp với đặc thù hoạt động. 

Sang năm 2024, NHNN không giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phù hợp với đặc thù, quy mô tín dụng của nhóm này.

Tuy nhiên, nhà điều hành tiếp tục giao room tín dụng đối với các TCTD còn lại. NHNN tiếp tục rà soát để từng bước dỡ bỏ hoàn toàn biện pháp trên. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai nhiệm vụ, NHNN nhận thấy nhiều khó khăn, vướng mắc. 

Chưa thể bỏ room tín dụng với những TCTD khác

Theo Thống đốc, áp lực lạm phát  vẫn còn hiện hữu, gây thách thức cho công tác điều hành CSTT và tín dụng của NHNN. Chính vì vậy, việc duy trì công cụ hạn mức tín dụng là nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, qua đó góp phần tích cực trong kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô. 

Trước năm 2011, do đặc thù kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào ngân hàng như kênh cung ứng vốn nên tín dụng và tỷ lệ tín dụng/GDP giai đoạn này cũng tăng nhanh. Kéo theo đó là cuộc đua lãi suất huy động  giữa các TCTD để có nguồn vốn cho vay, dẫn đến lãi suất cho vay tăng tương ứng. Đồng thời, nợ xấu hệ thống ngân hàng tăng cao, nhiều TCTD có nguy cơ mất thanh khoản, gây bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát tăng cao ở mức hai con số. 

Các tổ chức quốc tế (IMF, WB và Moody’s) cảnh báo việc nới lỏng tín dụng trong giai đoạn này làm tăng nguy cơ rủi ro trọng yếu đối với ổn định kinh tế vĩ mô, đe dọa đến an toàn hệ thống, mất khả năng kiểm soát nợ xấu. 

Ngoài ra, nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, nên tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã gây thêm ảnh hưởng kéo dài và nghiêm trọng đến nền kinh tế, hoạt động của doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng. 

Trước bối cảnh trên, từ năm 2011 đến nay, NHNN tiến hành giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD căn cứ vào năng lực tài chính, quản trị, điều hành đặc thù. 

Quá trình triển khai biện pháp điều hành tăng trưởng tín dụng từ năm 2011 đến nay cho thấy, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đã giảm từ mức trên 30%/năm (cá biệt có năm tăng 53,8%) xuống còn khoảng từ 12-14%/năm trong những năm gần đây. 

thong-doc-van-phai-duy-tri-room-tin-dung-de-dam-bao-an-toan-he-thong-on-dinh-lam-phat-happy-live-2
Tăng trưởng tín dụng đã không còn nóng kể từ khi NHNN áp dụng biện pháp giới hạn tăng trưởng tín dụng.

Kết quả này góp phần ổn định thị trường tiền tệ, kiểm soát và duy trì lạm phát ổn định dưới 4%. Đồng thời, biện pháp trên đã góp phần thúc đẩy các TCTD nâng cao năng lực quản trị, điều hành, cải thiện các chỉ số an toàn hoạt động, giảm mặt bằng lãi suất thị trường, báo cáo thông tin. 

Đến nay, đặc thù nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc chủ yếu vào kênh tín dụng ngân hàng để cung ứng cho các nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, tiêu dùng. Trong bối cảnh thị trường vốn phát triển chưa tương xứng, thì áp lực cân đối vốn cho nền kinh tế (đặc biệt vốn trung dài hạn) tiếp tục đè nặng lên vai hệ thống ngân hàng.

Tình trạng này tiềm ẩn rủi ro chênh lệch kỳ hạn, thanh khoản (khi TCTD chủ yếu huy động ngắn hạn nhưng cho vay trung dài hạn). Thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, thị trường vốn, thị trường chứng khoán có vai trò chủ đạo cung cấp vốn trung dài hạn cho nền kinh tế, hệ thống ngân hàng chủ yếu cung cấp vốn ngắn hạn. 

Do những đặc thù trên, Thống đốc lập luận rằng nếu để TCTD tự tăng trưởng tín dụng mà không có biện pháp kiểm soát như room tín dụng thì tình trạng như năm 2011 có thể tái diễn khiến nợ xấu gia tăng, đe dọa sự an toàn hệ thống, gây rủi ro bất ổn vĩ mô chung. 

Do vậy, việc duy trì công cụ hạn mức tín dụng là nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, qua đó góp phần tích cực trong kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô. Việc dỡ bỏ biện pháp này cần thận trọng, có lộ trình thích hợp, đảm bảo các điều kiện cần thiết và từng bước thực hiện phù hợp với điều kiện thị trường, báo cáo nhấn mạnh.

Thống đốc thông tin thêm rằng trong quá trình điều hành, NHNN đã và đang triển khai việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn theo chuẩn mực quốc tế trong hoạt động của các TCTD với việc phân bổ room tín dụng.

Đồng thời, để tiến tới và kiểm soát tín dụng thông qua các chỉ số an toàn, NHNN đang chỉ đạo các TCTD thực hiện giải pháp tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, nâng cao chuẩn mực quản trị theo thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, Thống đốc lưu ý rằng điều này cần song hành với việc triển khai hiệu quả quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nhằm nâng cao vai trò và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường vốn đáp ứng được nhu cầu vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế, giảm sự phụ thuộc vào kênh vốn tín dụng ngân hàng.

vietnambiz

“Cuốn sách giúp thay đổi rất nhiều luận điểm còn đang mơ hồ và những lầm tưởng khi nghĩ về kinh tế học”.

Basic Economics

ĐẶT SÁCH NGAY

Các viết cùng chủ đề