Đi tìm triết lý đầu tư phù hợp
Chúng ta vẫn nói đến sự quan trọng của triết lý đầu tư và phương pháp lựa chọn cổ phiếu. Hy vọng những khái quát về sự đối lập trong tư duy của Benjamin Graham và Philip Fisher và sự hòa hợp của chúng ở Warren Buffett sẽ giúp ích phần nào cho những ai đang tìm triết lý đầu tư phù hợp hoặc đang tự làm mới mình.
1. Triết lý đầu tư của Benjamin Graham
Ông cho rằng công ty tốt với mức giá cao không phải khoản đầu tư tốt. Mục tiêu là lợi dụng giao động của thị trường để tìm các cổ phiếu dưới giá trị thực. Khoảng chênh lệch giữa giá mua và giá trị nội tại vừa là Biên an toàn để chống lại các sai lầm khi phân tích cũng như các sự kiện Thiên nga đen. Có thể sử dụng BV, NWC hoặc P/E để xác định.
Dễ hiểu lầm rằng Benjamin Graham quay lưng với cổ phiếu tăng trưởng nhưng ông cho rằng đó là vấn đề của sự lựa chọn. NĐT có thể trả mức giá phù hợp với phân tích dựa trên giả thiết về tương lai của mình và chấp nhận rủi ro hoặc không chịu trả thêm và chấp nhận cơ hội vuột mất. Tuy nhiên, ông lưu ý 3 cái bẫy đối với cổ phiếu tăng trưởng:
(1) Có thể các yếu tố thuận lợi đã phản ánh và NĐT cá nhân khó có thể vượt quá tổ chức với bộ máy chuyên nghiệp và khả năng tiếp cận thông tin.
(2) Dù có dựa vào nhưng không thể đảm bảo thành tích trong quá khứ sẽ tiếp tục lặp lại, nhất là để giữ được mức tăng trưởng khi đã ở mức cao. Benjamin Graham dẫn chứng thống kê 50 năm cho thấy lần lượt chỉ có 10%, 3% và 0% công ty lớn Mỹ đạt được tốc độ tăng trưởng 20% trong 5 năm, 10 năm và 15 năm và hơn thế, đa số các công ty sẽ xấu hơn theo thời gian;
(3) Sự xa rời BV khi giá tăng sẽ làm tăng thêm rủi ro.
2. Triết lý đầu tư của Philip Fisher
Ngược lại, Philip Fisher cho rằng những công ty có ngành nghề tốt cùng với lịch sử tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận bền vững (giống Benjamin Graham), có những phẩm chất tốt về quản trị, R&D, marketing và bán hàng thì vẫn có thể đảm bảo tăng trưởng tốt trong dài hạn. Việc chấp nhận giá cao đối với những doanh nghiệp tốt, tương đương với P/E cao, sẽ được bù đắp bới tăng trưởng EPS và mức chấp nhận mặt bằng P/E cao hơn của thị trường. Ngược lại, ngồi đợi cổ phiếu undervalue đồng nghĩa với tự bó buộc mình.
Warren Buffett, dù vượt ra khỏi sự ảnh hưởng về giá trị của Benjamin Graham và học hỏi tư duy về lựa chọn cổ phiếu tăng trưởng của Philip Fisher, nhưng vẫn kết hợp hài hòa với quan điểm về Giá trị nội tại và Biên an toàn của Benjamin Graham. Nhưng quan điểm này không trói buộc Warren Buffett trong giới hạn P/E hay BV, thậm chí còn vượt vài chục % giá trị thị trường của các công ty được mua (Gillette, Justin Industries, Benjamin Moore) nhờ cách xác định giá trị riêng của ông, cả theo định tính lẫn định lượng, dựa cả vào quá khứ lẫn tiềm năng tương lai. Thậm chí, trong mô hình định giá của Warren Buffett, phí bảo hiểm rủi ro bằng 0 với lý luận công ty đã được lựa chọn kỹ lưỡng và việc mua vào cũng có áp dụng Biên an toàn.
Bên cạnh các phương pháp lựa chọn cổ phiếu bị định giá thấp, bao gồm cả netnet, arbitrages và workouts, Benjamin Graham cũng đưa ra gợi ý lựa chọn cổ phiếu tăng trưởng một cách an toàn là các công ty bị quên lãng như:
(1) Các công ty tốt nhưng đang gặp bất lợi tạm thời và bị quên lãng dù khi đã cải thiện để có giá mua hợp lý. Sự quên lãng đó có thể được thể hiện ở hệ số P/E thấp (nhưng cũng cần lưu ý đến số liệu EPS trung bình nhiều năm để lọc nhiễu), đồng thời cũng cần lưu ý đến các yếu tố định tính và định lượng khác. Cách này chủ động hơn nhưng so với Fisher thì vẫn bị động hơn nhiều;
(2) Các công ty hạng 2 tốt cũng có thể rơi vào dạng này. Nhưng theo Fisher thì tốc độ đó nếu cao hơn cũng chỉ vì do xuất phát điểm thấp (như tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam) và sẽ kém hơn trong dài hạn, hơn nữa dễ tổn thương hơn trong khủng hoảng.
Ngoài ra, để phân tích cổ phiếu tăng trưởng, Benjamin Graham đã đưa ra mô hình định giá 2 phần gồm:
(1) Định giá ban đầu – chú trọng phân tích nền tảng quá khứ nhiều năm và hiện tại, cả định tính lẫn định lượng, và tập trung nhiều vào các chỉ tiêu thể hiện sức mạnh tài chính, trong đó có cổ tức.
(2) Định giá điều chỉnh: Đánh giá lại các tiêu chí trên cơ sở nhận định tương lai một cách cụ thể, thậm chí phải định lượng được, để có thể thuyết phục về một mức giá tăng thêm.
Fisher cũng quan tâm đến nền tảng quá khứ, nhưng chủ yếu với tăng trưởng doanh số và biên lợi nhuận; Fisher có vẻ dễ tính hơn trong việc định giá nếu các phẩm chất mang tính định tính thỏa mãn được và sẽ chỉ bán cổ phiếu nếu thấy những phẩm chất này mai một. Ông cũng không đánh giá cao việc trả cổ tức mà quan tâm đến lợi nhuận giữ lại và năng lực sử dụng chúng.
Có 1 điều hay là nếu sắp xếp và nhóm lại 15 tiêu chí đánh giá cổ phiếu của Fisher, chúng ta có thể thấy 2 nhóm với ý nghĩa tương tự như mô hình định giá hai phần của Benjamin Graham mà Fisher gọi là Khoản đầu tư an toàn và Khả năng sinh lợi trên trung bình trong tương lai. Ngoài ra, Fisher còn thêm 1 nhóm nữa ở giữa là Yếu tố con người – nói lên tầm quan trọng của các yếu tố quản trị, điều hành và là nền tảng cho việc đánh giá tương lai. Nhìn một cách tổng thể, triết lý đầu tư và phương pháp của Benjamin Graham và Fisher có vẻ mâu thuẫn rất nhiều nhưng thực ra, họ đều có điểm chung là đòi hỏi sự tính nhất quán (consistency) của những thành tích trong quá khứ như một nền tảng và những yếu tố đảm bảo chắc chắn của những tiềm năng trong tương lai để xứng đáng với sự trả giá của họ.
3. Triết lý đầu tư của Warren Buffett
Cuối cùng, ta có thể thấy sự thống nhất giữa 2 thái cực đối lập nói trên ở Warren Buffett thể hiện ở câu nói: “first-class business with first-class management at a resonable price”. Ông không cảm tính nhưng cũng không cố lượng hóa những yếu tố định tính mà dùng chúng để hỗ trợ cho những biến số khi đưa vào mô hình định giá của mình để tìm ra mức giá tốt. Cuối cùng thì cũng ra một con số để trả giá.
Có thể thấy triết lý đầu tư và phương pháp phân tích cổ phiếu phụ thuộc rất nhiều về sở trường và tính cách của từng người. Nghe nói Benjamin Graham yêu sổ sách và khá cô độc, đối lập với Philip Fisher quảng giao, năng nổ, trong khi Waren Buffett lại có đức tính của cả hai: sự thâm trầm của người đọc 500 trang sách/ngày và dễ giao tiếp, đôi khi thụ động vì người khác tự nghĩ và tự tìm đến với ông nhờ sự khả kính của mình.
Nguồn: valueway
Có thể bạn quan tâm: Bộ sách Đầu tư giá trị từ A đến Z